TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ QUY NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH
BẢN ÁN 20/2023/LĐ-ST NGÀY 06/12/2023 VỀ TRANH CHẤP TRỢ CẤP THÔI VIỆC
Ngày 06 tháng 12 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân Tp. Quy Nhơn, tỉnh Bình Định xét xử công khai vụ án dân sự thụ lý số: 13/2023/TLST-LĐ ngày 05 tháng 10 năm 2023 về việc: “Tranh chấp về trợ cấp thôi việc”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 345/2023/QĐXXST-LĐ ngày 15 tháng 11 năm 2023, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Hoài T, sinh năm 1976. Có mặt Trú tại: 27 Phan Đình P, Tp. Q, tỉnh B
- Bị đơn: Công ty Cổ phần Quản lý sửa chữa đường bộ Quy N Trụ sở: 58 Diên H, P. L, Tp. Q, tỉnh B Người đại diện theo pháp luật: Ông Hà Bắc T – Chức vụ: Giám đốc
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Nguyễn Thị Ngọc P – chức vụ: Trưởng phòng Tổ chức – hành chính Công ty Cổ phần Quản lý sửa chữa đường bộ Quy N (Văn bản ủy quyền số: 112/GUQ-QLSCĐB ngày 02/11/2023). Có mặt Địa chỉ: 44 Phùng Khắc K, Tp. Q, tỉnh B.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 06/7/2023, các lời khai tiếp theo và tại phiên tòa nguyên đơn bà Nguyễn Thị Hoài T trình bày:
Bà Nguyễn Thị Hoài T là nhân viên và đã làm việc tại Xí nghiệp Quản lý và sửa chữa đường bộ Quy N nay là Công ty Cổ phần Quản lý sửa chữa đường bộ Quy N từ ngày 02/5/1999 đến ngày 08/11/2022 (23 năm 06 tháng). Vì công việc gia đình, bà làm đơn xin thôi việc và được Giám đốc Công ty Cổ phần Quản lý và sửa chữa đường bộ Quy N đồng ý và có Quyết định số 158/QĐ-QLSCĐB ngày 09/11/2022 về việc chấm dứt Hợp đồng lao động đối với bà và bà được nghỉ việc từ ngày 14/11/2022. Trong thời gian lao động, bà luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ, không bị kỷ luật, luôn đóng bảo hiểm xã hội đầy đủ và bắt đầu đóng bảo hiểm thất nghiệp từ tháng 01/2009 cho đến khi thôi việc. Sau khi nghỉ việc bà đã nhận tiền bảo hiểm thất nghiệp, riêng tiền trợ cấp thôi việc đến nay vẫn chưa được Công ty thanh toán; mặc dù bà đã nhiều lần làm đơn và trực tiếp gặp Giám đốc Công ty nhưng cho đến nay vẫn chưa được chấp nhận. Nay bà khởi kiện yêu cầu Công ty Cổ phần Quản lý sửa chữa đường bộ Quy N thanh toán tiền trợ cấp thôi việc, cụ thể như sau: Thời gian làm việc từ tháng 5/1999 đến tháng 12/2008 là 09 năm 08 tháng, làm tròn là 10 năm. Tiền lương bình quân 06 tháng trước khi nghỉ việc là 7.879.500 đồng; cứ mỗi năm làm việc được tính trợ cấp thôi việc là ½ tháng lương. Như vậy, tiền trợ cấp thôi việc bà yêu cầu được nhận là: (7.879.500 đồng : 2) x 10 năm = 39.397.500 đồng. Ngoài ra, bà không có yêu cầu gì khác.
Bị đơn Công ty Cổ phần Quản lý, sửa chữa đường bộ Quy N, người đại diện theo ủy quyền bà Nguyễn Thị Ngọc P trình bày:
Bà Nguyễn Thị Ngọc P thống nhất về việc bà Nguyễn Thị Hoài T đã làm việc tại Xí nghiệp Quản lý và sửa chữa đường bộ Quy N nay là Công ty Cổ phần Quản lý sửa chữa đường bộ Quy N từ ngày 02/5/1999 đến ngày 09/11/2022 thì được nghỉ việc theo nguyện vọng của bà T. Bà T bắt đầu đóng bảo hiểm thất nghiệp từ tháng 01/2009 cho đến khi nghỉ việc. Quá trình làm việc, Công ty đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với bà T. Đến khi chấm dứt hợp đồng lao động, Công ty đã thanh toán đầy đủ tiền lương và các chế độ khác cho bà T theo quy định. Đối với khoản thanh toán tiền trợ cấp thôi việc cho bà T cần phải thông qua tại Đại hội cổ đông rồi mới quyết định được và theo quy định tiền trợ cấp thôi việc cho người lao động theo quy định phải được hạch toán vào chi phí sản xuất kinh doanh nhưng do Công ty đang khó khăn, thua lỗ nên không có khả năng chi trả cho bà T được. Ngoài ra, bà không có yêu cầu gì khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng dân sự:
Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Nguyễn đơn bà Nguyễn Thị Hoài T khởi kiện yêu cầu bị đơn Công ty Cổ phần Quản lý sửa chữa đường bộ Quy N, trụ sở tại địa chỉ: 58 Diên H, P. L, Tp. Q, tỉnh B thanh toán tiền trợ cấp thôi việc nên quan hệ pháp luật được xác định: “Tranh chấp về trợ cấp thôi việc” thuộc trường hợp tranh chấp về lao động và vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân Tp. Quy Nhơn theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 32, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung tranh chấp:
Tại phiên tòa, các bên đương sự thống nhất bà Nguyễn Thị Hoài T là nhân viên làm việc tại Xí nghiệp Quản lý và sửa chữa đường bộ Quy N (nay là Công ty Cổ phần Quản lý sửa chữa đường bộ Quy N) từ ngày 02/5/1999 đến ngày 08/11/2022. Sau đó, vì công việc gia đình nên bà T đã làm đơn xin thôi việc và được Giám đốc Công ty Cổ phần Quản lý sửa chữa đường bộ Quy N có Quyết định số 158/QĐ-QLSCĐB ngày 09/11/2022 về việc chấm dứt Hợp đồng lao động đối với bà T và thời gian nghỉ việc tính từ ngày 14/11/2022. Trong thời gian lao động, bà T đã đóng bảo hiểm xã hội đầy đủ và bắt đầu đóng bảo hiểm thất nghiệp từ tháng 01/2009 cho đến khi thôi việc.
Bà T trình bày, sau khi thôi việc bà đã nhận tiền bảo hiểm thất nghiệp, riêng tiền trợ cấp thôi việc đến nay vẫn chưa được Công ty thanh toán nên bà T khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết buộc Công ty thanh toán trợ cấp thôi việc cho bà theo quy định. Người đại diện theo uỷ quyền của bị đơn bà Nguyễn Thị Ngọc P trình bày: Việc thanh toán tiền trợ cấp thôi việc cho bà T cần phải được thông qua tại Đại hội cổ đông rồi mới quyết định được. Ngoài ra, đối với tiền trợ cấp thôi việc cho người lao động theo quy định phải được hạch toán vào chi phí sản xuất kinh doanh nhưng do Công ty đang khó khăn, thua lỗ nên không có chi phí do đó Công ty không có khả năng chi trả tiền trợ cấp thôi việc cho bà T.
Hội đồng xét xử xét thấy: Bà T đã làm việc thường xuyên cho Công ty từ ngày 02/5/1999 đến ngày 08/11/2022 là 23 năm 06 tháng, cho đến khi chấm dứt Hợp đồng lao động vào ngày 14/11/2022 nên Công ty phải có trách nhiệm trả trợ cấp thôi việc cho bà T. Việc Công ty đến nay vẫn chưa trả trợ cấp thôi việc cho người lao động là vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 46 của Bộ Luật Lao động. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc Công ty phải có nghĩa vụ thanh toán tiền trợ cấp thôi việc cho bà T. Bà T tham gia bảo hiểm thất nghiệp từ tháng 01/2009 đến khi thôi việc nên căn cứ quy định tại Điều 46 của Bộ Luật Lao động và Điều 8 Nghị định 145/2020/NĐ-CP ngày 14/12/2020 của Chính phủ thì tiền trợ cấp thôi việc của bà T được tính như sau:
- Thời gian làm việc từ tháng 5/1999 đến tháng 12/2008 là 09 năm 08 tháng, làm tròn là 10 năm;
- Tiền lương bình quân 06 tháng trước khi nghỉ việc là 7.879.500 đồng.
Mỗi năm làm việc được tính trợ cấp thôi việc là ½ tháng lương.
Như vậy, số tiền trợ cấp thôi việc mà Công ty Cổ phần Quản lý sửa chữa đường bộ Quy N phải trả cho bà T là: (7.879.500đ : 2) x 10 năm = 39.397.500 đồng Bị đơn cho rằng việc chi trả trợ cấp thôi việc cho bà T phải thông qua Đại hội cổ đông và do Công ty đang khó khăn, bị thua lỗ nên không có khả năng chi trả tiền trợ cấp thôi việc cho bà Thương là không có cơ sở, không phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử không chấp nhận.
[3] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, Công ty Cổ phần Quản lý sửa chữa đường bộ Quy N phải chịu 1.969.875 đồng (39.397.500 đồng x 5%) án phí lao động sơ thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 32 và điểm c khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Căn cứ Điều 46 của Bộ luật Lao động 2019;
- Căn cứ Điều 8 Nghị định số: 145/2020/NĐ-CP ngày 14/12/2020 của Chính Phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về điều kiện lao động và quan hệ lao động;
- Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Hoài T đối với Công ty Cổ phần Quản lý sửa chữa đường bộ Quy N.
2. Buộc Công ty Cổ phần Quản lý sửa chữa đường bộ Quy N có nghĩa vụ thanh toán tiền trợ cấp thôi việc cho bà Nguyễn Thị Hoài T số tiền là 39.397.500 đồng (Ba mươi chín triệu ba trăm chín mươi bảy nghìn năm trăm đồng).
3. Về án phí lao động sơ thẩm: Công ty Cổ phần Quản lý sửa chữa đường bộ Quy N phải chịu 1.969.875 đồng (Một triệu chín trăm sáu mươi chín nghìn tám trăm bảy mươi lăm đồng).
4. Về quyền, nghĩa vụ thi hành án:
4.1 Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
4.2 Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, thì người thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án dân sự, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết.
Bản án 20/2023/LĐ-ST về tranh chấp trợ cấp thôi việc
Số hiệu: | 20/2023/LĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Qui Nhơn - Bình Định |
Lĩnh vực: | Lao động |
Ngày ban hành: | 06/12/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về