Bản án 20/2023/KDTM-ST về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PH LONG XUYÊN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 20/2023/KDTM-ST NGÀY 25/09/2023 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA

Ngày 25 tháng 9 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án kinh doanh thương mại số 14/2023/TLST-KDTM ngày 19 tháng 6 năm 2023 về việc “tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 449/2023/QĐXXST-KDTM ngày 15 tháng 8 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 429/2023/QĐST-KDTM ngày 05 tháng 9 năm 2023 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Công ty TNHH T;

Địa chỉ trụ sở: số C T, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang;

Người đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Thị B, chức vụ/ chức danh: Chủ tịch Hội đồng thành viên kiêm Giám đốc;

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Kiều Thị Bích L, sinh năm 1984;

Địa chỉ liên lạc: số C T, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang.

2. Bị đơn: Công ty TNHH X;

Địa chỉ trụ sở: số A - A - 16B1 đường P, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang;

Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Thanh G, chức danh: giám đốc;

Địa chỉ nơi làm việc: số 14 - 15 - 16B1 đường P, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang.

3. Người làm chứng: Bà Phạm Hoàng P Tại phiên tòa, bà L đại diện cho Công ty TNHH T có mặt, đại diện cho Công ty TNHHX vắng mặt; người làm chứng vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình làm việc, hòa giải, giải quyết vụ án, người đại diện của nguyên đơn trình bày:

Giữa Công ty TNHH T (viết tắt là Công ty T) với Công ty TNHH X (viết tắt là Công ty X) có giao dịch mua bán hàng hóa là vật tư xây dựng theo Hợp đồng nguyên tắc về việc cung ứng vật tư ngày 28 tháng 12 năm 2021 do các bên xác lập. Thực hiện hợp đồng này, Công ty T đã giao vật tư theo các điều khoản đã thỏa thuận, tạo điều kiện thuận lợi cho Công ty X kịp tiến độ thi công công trình Nhà hát tỉnh A. Tuy nhiên, sau thời gian thực hiện hợp đồng thì Công ty X không thanh toán tiền vật tư cho Công ty T đúng như thỏa thuận. Ngày 31 tháng 7 năm 2022, giữa Công ty T và Công ty X đã thực hiện đối chiếu công nợ theo Biên bản xác nhận công nợ, số nợ tính đến ngày 31 tháng 7 năm 2022 của Công ty X là 4.982.847.274 đồng.

Từ tháng 8 năm 2022, Công ty X đã không chịu thực hiện đối chiếu công nợ. Từ tháng 10 năm 2022 đến nay Công ty X đã không thanh toán tiền vật tư, không ký xác nhận công nợ hàng tháng. Công ty T đã nhiều lần liên hệ để yêu cầu thanh toán nhưng không liên lạc được với lãnh đạo Công ty X, trụ sở công ty này hiện đang đóng cửa. Số tiền Công ty X còn nợ Công ty T sau khi đối chiếu công nợ vào ngày 31 tháng 7 năm 2022 đến nay còn lại là 4.805.365.671 đồng theo bảng đối chiếu công nợ phải thu do Công ty T lập. Lý do, số tiền chỉ còn lại 4.805.365.671 đồng, là do từ tháng 8 đến tháng 12 năm 2022, Công ty X vẫn nhận hàng và thanh toán, đến tháng 10 năm 2022 mới bắt đầu không thanh toán nữa.

Hai bên thực hiện các lần mua hàng như sau: Công ty X gửi thông báo đặt hàng bằng văn bản cho Công ty T. Khi nhận được thông báo đặt hàng thì Công ty T sẽ báo giá cho Công ty X, Công ty X đồng ý giá thì Công ty T thực hiện giao hàng tại công trình. Sau đó, phòng vật tư của Công ty X sẽ thực hiện kiểm kê hàng hóa giao đủ và chốt lại số lượng hàng hóa đã nhận với Công ty T. Sau khi chốt đã nhận đủ hàng thì Công ty T thực hiện xuất hóa đơn VAT gửi cho Công ty X thông qua email hoặc zalo của bộ phận kế toán Công ty X. Kể từ ngày Công ty T xuất hóa đơn thì trong thời hạn 30 ngày Công ty X phải thực hiện thanh toán. Mỗi lần giao hàng đều có người của Công ty X ở tại công trình ký biên bản giao nhận.

Nay Công ty T khởi kiện yêu cầu Công ty X có nghĩa vụ trả cho Công ty T số tiền còn nợ là 4.805.365.671 đồng và tiền lãi chậm trả theo lãi suất đã thỏa thuận trong Hợp đồng nguyên tắc ngày 28 tháng 12 năm 2021, tính từ tháng 01 năm 2023 đến khi trả hết nợ.

Bị đơn Công ty TNHH X: Vắng mặt và không có ý kiến trình bày bằng văn bản.

Người làm chứng bà Phạm Hoàng P trình bày: Bà làm việc ở phòng vật tư của Công ty X. Bà làm nhiệm vụ đối chiếu lại số hàng đã nhận có đủ không, hàng nhận đủ thành tiền là bao nhiêu, rồi bà báo với phòng kế toán. Trong Công ty X có hệ thống mạng nội bộ, khoản nào thanh toán rồi sẽ báo lên, nên bà biết khoản nào đã trả khoản nào chưa, đến tháng thì bà rà lại giữa hàng đã nhận, tiền hàng phải thanh toán, khoản nào đã thanh toán theo đối chiếu công nợ và báo lại bên kế toán. Từ tháng 8 năm 2022, số tiền hàng của Công ty T quá lớn, nên bà không thực hiện việc này nữa, bà chỉ đối chiếu hàng hóa đã giao có đúng với hàng hóa đã nhận, đủ về số lượng chưa và giá trị hàng hóa đã nhận là bao nhiêu. Còn việc sau khi nhận hàng thanh toán hay chưa là do phòng kế toán tự thực hiện, số lượng hàng hóa và giá trị hàng hóa theo Đối chiếu công nợ phải thu từ ngày 01 tháng 8 năm 2022 đến ngày 31 tháng 12 năm 2022 mà Công ty T cung cấp là đúng với những nội dung bà biết khi bà còn làm việc tại Công ty X.

Tòa án đã tiến hành tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và tiến hành hòa giải nhưng bị đơn đều vắng mặt không lý do, nên vụ án không tiến hành hòa giải được. Do đó, Tòa án mở phiên tòa sơ thẩm xét xử công khai vụ án để Hội đồng xét xử xem xét, quyết định.

Tại phiên tòa:

- Bà Kiều Thị Bích L đại diện cho Công ty T trình bày: vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện yêu cầu Công ty X trả số tiền 4.805.365.671 đồng và tiền lãi chậm trả theo lãi suất đã thỏa thuận trong Hợp đồng nguyên tắc ngày 28 tháng 12 năm 2021, tính từ tháng 01 năm 2023 đến khi trả hết nợ.

- Đại diện cho bị đơn: vắng mặt và không cung cấp ý kiến, tài liệu, chứng cứ.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng và việc giải quyết vụ án:

- Về tố tụng: Hội đồng xét xử, Thư ký tòa án đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về trình tự, thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại các Điều 70, 71 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn mặc dù đã được triệu tập hợp lệ nhưng nhiều lần vắng không lý do, không tham gia các phiên hòa giải, công khai chứng cứ, không trình bày ý kiến đối với yêu cầu của nguyên đơn là chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung: hợp đồng mua bán hàng hóa giữa Công ty T và Công ty X được xác lập trên cơ sở tự nguyện thỏa thuận, hàng hóa mua bán là vật tư xây dựng theo Hợp đồng nguyên tắc về việc cung ứng vật tư được ký kết ngày 28 tháng 12 năm 2021 là phù hợp theo quy định tại Điều 24 Luật Thương mại năm 2005. Khi thực hiện hợp đồng, Công ty T đã giao vật tư theo các điều khoản thỏa thuận trong hợp đồng cho Công ty X, tuy nhiên Công ty X không thực hiện nghĩa vụ thanh toán cho Công ty T. Căn cứ theo Biên bản xác nhận công nợ ngày 31 tháng 7 năm 2022 giữa hai Công ty T và Công ty X, chứng minh hiện nay Công ty X còn nợ Công ty T số tiền 4.805.365.671 đồng. Vì vậy, Công ty T khởi kiện yêu cầu Công ty X có trách nhiệm trả nợ và tiền lãi phát sinh theo sự thỏa thuận trong Hợp đồng nguyên tắc được lập ngày 28 tháng 12 năm 2021 là có căn cứ. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty T, buộc Công ty X có nghĩa vụ trả cho Công ty T số tiền 4.805.365.671 đồng và tiền lãi chậm trả theo lãi suất đã thỏa thuận trong Hợp đồng nguyên tắc ngày 28 tháng 12 năm 2021, tính từ ngày 20 tháng 01 năm 2023 đến khi trả hết nợ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra, xem xét tại phiên tòa, kết quả việc tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của các đương sự, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử sơ thẩm nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả tiền mua hàng còn nợ. Bị đơn có trụ sở đăng ký kinh doanh tại thành phố L; các bên đều có đăng ký kinh doanh và hoạt động kinh doanh thu lợi nhuận. Do đó, Hội đồng xét xử xác định đây là vụ án kinh doanh thương mại về “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa” và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên.

[2] Về thủ tục tố tụng: Công ty X đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt không lý do; nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đương sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về nội dung tranh chấp:

[3.1] Giữa Công ty T và Công ty X có xác lập giao dịch mua bán hàng hóa dưới hình thức Hợp đồng nguyên tắc (V/v cung ứng vật tư) ngày 28 tháng 12 năm 2021, để Công ty T bán cho Công ty X hàng hóa là vật liệu xây dựng (sắt và xi măng). Quá trình thực hiện hợp đồng, Công ty X đã nhận hàng hóa, đã được Công ty T thông báo số tiền công nợ nhưng không thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Sau khi Công ty T nhiều lần yêu cầu thanh toán, Công ty X vẫn không trả số tiền còn nợ, nên Công ty T mới khởi kiện yêu cầu trả tiền hàng còn nợ và yêu cầu trả lãi. Công ty X đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng đều vắng mặt và không cung cấp ý kiến, tài liệu chứng cứ, phản bác ý kiến của nguyên đơn.

[3.2] Xét thấy: hợp đồng mua bán hàng hóa giữa các bên được xác lập trên cơ sở tự nguyện, không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội, không bị lừa dối hay ép buộc nên là giao dịch hợp pháp và làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của các bên. Căn cứ vào các biên bản giao nhận hàng, biên bản đối chiếu công nợ và các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp đều thể hiện Công ty T đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ giao hàng, cung cấp hồ sơ hàng hóa, hồ sơ thanh quyết toán theo thỏa thuận tại hợp đồng đã ký kết. Nhưng Công ty X sau một thời gian dài thực hiện giao dịch, lại không tiếp tục trả tiền hàng là đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán mà các bên thỏa thuận. Từ khi Tòa án thụ lý vụ án cho đến khi xét xử, Công ty X không cung cấp ý kiến, tài liệu chứng cứ phản bác yêu cầu của nguyên đơn. Vì vậy, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc trả số tiền nợ gốc là có căn cứ để chấp nhận.

[3.3] Về yêu cầu trả lãi chậm thanh toán. Tại mục 3.3 Điều 3 Hợp đồng nguyên tắc (V/v cung ứng vật tư) ngày 28 tháng 12 năm 2021 được ký kết, hai bên thỏa thuận “ngoài việc phải thanh toán đầy đủ khoản nợ quá hạn, Bên B (Công ty X) còn phải trả thêm lãi suất 1,2%/tháng trên tổng số tiền quá hạn”. Công ty T yêu cầu Công ty X phải trả lãi trên số tiền công nợ từ tháng 01 năm 2023 theo thỏa thuận này. Tại mục 3.2 Điều 3 Hợp đồng nguyên tắc (V/v cung ứng vật tư) ngày 28 tháng 12 năm 2021, các bên thỏa thuận thời hạn thanh toán là trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhận hàng. Căn cứ Bảng Đối chiếu công nợ phải thu ngày 31 tháng 12 năm 2022 do Công ty T lập, thể hiện ngày nhận hàng cuối cùng của Công ty X là ngày 20 tháng 12 năm 2022, nên đến ngày 20 tháng 01 năm 2023, Công ty X không thanh toán là đã bị quá thời hạn thanh toán. Quá trình Tòa án giải quyết vụ án, Công ty X không có ý kiến gì về việc chậm thanh toán, lãi chậm thanh toán. Xét thấy: thỏa thuận về việc chịu lãi do chậm thanh toán của các bên phù hợp với quy định tại Điều 306 Luật Thương mại. Từ ngày 20 tháng 12 năm 2022, Công ty X đã không thực hiện bất kỳ nghĩa vụ thanh toán nào là vi phạm các nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng. Vì vậy, yêu cầu tính lãi của Công ty T là có cơ sở để buộc Công ty X phải trả số tiền lãi từ ngày 20 tháng 01 năm 2023 (ngày quá thời hạn thanh toán) tạm tính đến ngày xét xử sơ thẩm 25 tháng 9 năm 2023 là:

4.805.365.671 đồng x 1,2%/tháng x 08 tháng 05 ngày = 470.925.835 đồng.

[3.3.4] Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, Công ty X còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền chưa thanh toán theo mức lãi suất bằng 1,2%/tháng theo thỏa thuận trên hợp đồng đối với số tiền chưa thanh toán.

[3.4] Từ những nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy có đủ căn cứ đề chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty T để buộc Công ty X phải trả cho Công ty T số tiền tạm tính đến ngày xét xử sơ thẩm là: 5.276.291.506 đồng.

[5] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện được chấp nhận nên Công ty T không phải chịu án phí sơ thẩm. Công ty X phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Các Điều 30, 35, 39, 144, 147, 227, 228, 235, 271, 273, 278 và Điều 280 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Các Điều 24, 50, 55, 306 Luật Thương mại năm 2005.

- Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH T đối với Công ty TNHHX.

Buộc Công ty TNHH X có nghĩa vụ trả cho Công ty TNHH T số tiền tổng cộng là: 5.276.291.506 (năm tỷ hai trăm bảy mươi sáu triệu hai trăm chín mươi mốt nghìn năm trăm linh sáu đồng) trong đó: số tiền nợ gốc là 4.805.365.671 đồng (bốn tỷ tám trăm linh năm triệu ba trăm sáu mươi lăm nghìn sáu trăm bảy mươi mốt đồng) và tiền lãi tạm tính đến ngày 25 tháng 9 năm 2023 là 470.925.835 đồng (bốn trăm bảy mươi triệu chín trăm hai mươi lăm nghìn tám trăm ba mươi lăm đồng).

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, cho đến khi thi hành án xong, Công ty TNHH X còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thanh toán theo mức lãi suất bằng 1,2%/tháng (một phẩy hai phần trăm trên một tháng).

2. Về án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm:

Công ty TNHH T không phải chịu tiền án phí sơ thẩm nên được nhận lại số tiền 56.402.600 đồng (năm mươi sáu triệu bốn trăm linh hai nghìn sáu trăm đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu số 0001812 ngày 05 tháng 6 năm 2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.

Công ty TNHH X phải chịu tiền án phí sơ thẩm là 113.276.292 đồng (một trăm mười ba triệu hai trăm bảy mươi sáu nghìn hai trăm chín mươi hai đồng).

3. Về quyền kháng cáo:

Đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

42
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 20/2023/KDTM-ST về tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa

Số hiệu:20/2023/KDTM-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Kinh tế
Ngày ban hành: 25/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;