TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN THIẾT, TỈNH BÌNH THUẬN
BẢN ÁN 20/2021/HS-ST NGÀY 28/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Trong ngày 28 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 260/2020/HSST ngày 24 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 24/2021/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo:
Quách Minh A (B), Sinh năm: 1993; tại tỉnh C; giới tính: Nữ.
Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: thôn D, xã E, huyện F, tỉnh G; Chỗ ở: khu phố H, phường I, thành phố J, tỉnh Bình Thuận. Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: không; Cha: ông Quách Phước K; Mẹ: bà Trần Thị Bích L (đã chết); Anh chị em ruột: gia đình có 02 người, bị cáo là con út trong gia đình; Chồng: Võ Mạnh M, sinh năm: 1989, nghề nghiệp: làm nông; có 03 người con, lớn nhất sinh năm: 2010, nhỏ nhất sinh năm: 2018; Tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp tạm giam từ ngày 09/10/2020 đến ngày 10/11/2020 cho bảo lĩnh. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 17 giờ ngày 29/9/2020, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên Quách Minh A đã bắt xe khách từ thành phố J đến tỉnh N để mua ma túy. Khi đến khu vực huyện O, tỉnh N, A gặp một người tên P (không rõ nhân thân) hỏi mua 2.800.000 đồng ma túy đá, P đồng ý và đưa cho A 01 gói ma túy đá rồi nhận 2.800.000 đồng của A. Sau khi mua được ma túy đá, A bắt xe khách về lại nhà của mình ở đường Q, phường I, thành phố J để nghỉ. Đến khoảng 16 giờ ngày 30/9/2020, A hẹn 01 người bạn tên Nguyễn Quốc R đến quán cà phê T thuộc khu phố H, phường S, thành phố J để uống cà phê. Khi đi thì A có bọc theo gói ma túy đá vừa mua được vào 01 chiếc khẩu trang màu xám đen và cầm trên tay. Khi đến quán cà phê T, A ngồi xuống ghế uống cà phê với R, ngồi được một lúc thì R đi về. Một lúc sau lực lượng Công an phường S và Đồn biên phòng U ập vào kiểm tra nên A đã dùng tay phải của mình đẩy chiếc khẩu trang chứa ma túy xuống dưới đất. Lực lượng Công an kiểm tra thì phát hiện chiếc khẩu trang chứa ma túy đá ở gần chỗ A ngồi.
Vật chứng thu giữ tại hiện trường:
01 chiếc khẩu trang y tế màu xám đen, bên trong có chứa 01 túi nylon không màu có một đầu là khóa kéo bằng nhựa, kích thước (6,5 x 4)cm, bên trong có chứa tinh thể màu trắng dạng rắn, thu giữ trên sàn bên cạnh bàn của A ngồi.
01 điện thoại di động màu xanh đen, nhãn hiệu mobell, thu giữ từ A.
Ngoài ra lực lượng Công an còn thu giữ 01 USB bên trong đoạn video chứa hình ảnh Quách Minh A khi vào quán cà phê T có cầm 01 chiếc khẩu trang màu xám đen trên tay, khi vào tới bàn uống cà phê thì để chiếc khẩu trang này trên bàn trước mặt mình và khi lực lượng Công an kiểm tra thì A đã dùng tay phải của mình gạt chiếc khẩu trang này xuống đất.
Tại kết luận giám định số 1084/KLGĐ-PC09, ngày 03/10/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận kết luận:
Mẫu M gửi giám định có khối lượng 8,0771 gam là Methamphetamine.
Hoàn lại mẫu vật gửi đến giám định: 01 gói nylon và 6,1464 gam Methamphetamine được niêm phong trong phong bì số 1084, có chữ ký của giám định viên Đinh Trung V và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận.
Đối với các mẫu vật còn lại sau giám định niêm phong trong phong bì số 1084 và 01 chiếc khẩu trang y tế màu xám đen đang được chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự Tp J bảo quản chờ xử lý.
Tại phiên tòa sơ thẩm:
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố J giữ nguyên Quyết định truy tố theo Cáo trạng số 02/CT-VKS ngày 17/12/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố J.
Đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố bị cáo Quách Minh A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Áp dụng: điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt Quách Minh A từ 05 năm 06 tháng đến 06 năm 06 tháng tù.
Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên:
Tịch thu tiêu hủy 01 (một) chiếc khẩu trang màu xám, đen không còn giá trị sử dụng và mẫu vật còn lại sau giám định, được niêm phong trong phong bì số 1084 là vật chứng của vụ án cấm lưu hành.
Bị cáo xác định cáo trạng truy tố là không oan; bị cáo không tranh luận và đề nghị hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
Căn cứ vào các chứng cứ và các tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Viện kiểm sát, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan điều tra thành phố J, Viện kiểm sát nhân dân thành phố J: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng quy định pháp luật.
[2] Về chứng cứ buộc tội bị cáo: Lời khai nhận của bị cáo Quách Minh A tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, biên bản khám xét, các vật chứng đã thu giữ và kết luận giám định. Phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác được thu thập trong hồ sơ vụ án. Đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 16 giờ 30 phút ngày 30/9/2020, Quách Minh A có hành vi tàng trữ trái phép 8,0771 gam là Methamphetamine tại khu phố 1, phường S, thành phố Phan Thiết nhằm mục đích sử dụng thì bị Đồn biên phòng U – BCH Bộ đội biên phòng tỉnh Bình Thuận phối hợp với Công an phường S phát hiện bắt giữ. Vì vậy, Cáo trạng số 02/CT-VKS ngày 17 tháng 12 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố J truy tố bị cáo Quách Minh A về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ.
[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Bị cáo biết rõ ma túy là chất gây nghiện, do Nhà nước độc quyền quản lý và luôn nghiêm cấm các hành vi tàng trữ, mua bán trái phép; thế nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi tàng trữ trái phép. Hành vi phạm tội của bị cáo không những đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma túy, mà còn gây mất trật tự trị an xã hội, nhất là trong giai đoạn hiện nay tệ nạn ma túy ngày một lây lan, gây ra những hậu quả rất nguy hiểm cho xã hội và còn là nguyên nhân gián tiếp dẫn đến việc thực hiện nhiều loại tội phạm khác.
[4] Về tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thể hiện thái độ khai báo thành khẩn. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự nên cần xem xét áp dụng cho bị cáo.
Trên cơ sở cân nhắc tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo nhận thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm trừng trị, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt sống có ích cho xã hội, qua đó ngăn ngừa bị cáo phạm tội mới và phục vụ công tác đấu tranh phòng chống tội phạm.
[5] Về xử lý vật chứng:
Đối với 01 (một) chiếc khẩu trang màu xám, đen không còn giá trị sử dụng và một phong bì niêm phong số 1084, có chữ ký của giám định viên Đinh Trung V và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận là vật chứng của vụ án cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.
Đối với đối tượng tên P đã bán ma túy cho A, do không xác định được nhân thân nên không có căn cứ để xử lý, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.
Đối với Lê Quốc R, quá trình điều tra xác định việc A tàng trữ trái phép chất ma túy thì R không biết nên không có căn cứ xử lý đối với R là phù hợp.
Đối với chiếc điện thoại di động màu xanh đen, nhãn hiệu Mobell do không liên quan đến vụ án nên cơ quan CSĐT – Công an thành phố J đã trả lại cho A nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.
Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng: Điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tuyên bố: Bị cáo Quách Minh A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt: Bị cáo Quách Minh A 05 năm 06 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án nhưng được khấu trừ thời gian tạm giam từ ngày 09/10/2020 đến ngày 10/11/2020.
Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
Tịch thu tiêu hủy 01 (một) chiếc khẩu trang màu xám, đen và một phong bì niêm phong số 1084, có chữ ký của giám định viên Đinh Trung V và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận (Theo biên bản giao nhận vật chứng số 60 ngày 23/12/2020 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố J và Công an thành phố J).
Về án phí: Áp dụng khoản 02 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc Quách Minh A phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Án xử công khai, có mặt bị cáo. Báo cho biết bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (28/01/2021).
Bản án 20/2021/HS-ST ngày 28/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 20/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/01/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về