Bản án 20/2021/HS-ST ngày 12/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NẬM NHÙN, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 20/2021/HS-ST NGÀY 12/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 12 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 17/2021/TLST-HS ngày 02 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 17/2021/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 4 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Vàng A Ch (Tên gọi khác: Không) - sinh năm 2000 tại huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu.

Nơi cư trú, chỗ ở trước khi bị bắt: Bản Sín C B, xã Pa V S, huyện Mường T, tỉnh Lai Châu; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hoá (học vấn): 6/12; dân tộc: La Hủ; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vàng Le X – sinh năm 1970 và con bà Pờ Mì G – sinh năm 1970; Gia đình có 07 anh chị em, bị cáo là con thứ tư trong gia đình. Vợ, con: chưa có. tiền án: không, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 17/12/2020 đến ngày 26/12/2020 thì bị tạm giạm tại Nhà tạm giữ Công an huyện Nậm Nhùn cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Vàng Gió Ch (Tên gọi khác: Không) - sinh năm 1990 tại huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu.

Nơi cư trú, chỗ ở trước khi bị bắt: Bản Sín C B, xã Pa Vệ S, huyện Mường T, tỉnh Lai Châu; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hoá: Không biết chữ; dân tộc: La Hủ; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vàng A X – đã chết và con bà Vàng Phì N – sinh năm 1958; Gia đình có hai anh chị em, bị cáo là con thứ hai trong gia đình. Vợ, con: chưa có. Tiền án: không, tiền sự: không; Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 17/12/2020 đến ngày 26/12/2020 thì bị tạm giạm tại Nhà tạm giữ Công an huyện Nậm Nhùn cho đến nay.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Ông Lại Quang S – sinh năm: 1987 – Vắng mặt có lý do Địa chỉ: Tổ 11 phường Đoàn K, thành phố Lai Ch, tỉnh Lai Châu 2. Ông Vàng Le X – sinh năm 1970 – Có mặt Địa chỉ: Bản Sín Ch B, xã Pa Vệ S, huyện Mường T, tỉnh Lai Châu.

- Người bào chữa cho các bị cáo:

Ông Lê Mạnh Hùng – Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh lai Châu – Có mặt -Người phiên dịch:

Bà Lùng Thị Ch – Sinh năm 1979 Địa chỉ: Thị trấn Nậm Nh, huyện Nậm Nh, tỉnh Lai Châu

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Về hành vi phạm tội của các bị cáo:

Vào hồi 08 giờ 00 phút ngày 16/12/2020 Vàng A Ch rủ Vàng Gió Ch góp tiền để đi mua ma túy về sử dụng thì Vàng Gió Ch đồng ý và thống nhất góp mỗi người 150.000 đồng được số tiền 300.000 đồng rồi đưa cho Ch cầm. Sau đó Ch điều khiển xe máy nhãn hiệu HONDA loại BLADE màu sơn đỏ đen không biển kiểm soát, chở Vàng Gió Ch từ bản Sín Chải B, xã Pa Vệ Sủ, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu xuống bản Pa Mu, xã Hua Bum, huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu để mua ma túy, khi đến nơi Ch và Ch gặp một người đàn ông khoảng 30 tuổi không rõ lai lịch, qua trao đổi Ch mua được 02 gói Heroine của người đàn ông này với số tiền 300.000 đồng. Mua được ma túy Ch cùng Ch tách một ít rồi đi vào bụi cây ven đường cùng nhau sử dụng. Số Heroine còn lại Ch cất giấu vào mũ bảo hiểm mà Ch đang đội rồi điều khiển xe máy Chở Vàng Gió Ch đi về. Vào khoảng 17 giờ 50 phút cùng ngày khi Ch và Ch đi đến quốc lộ 4H thuộc bản Pa Mu, xã Hua Bum, huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu thì bị tổ công tác Công an xã Hua Bum phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng Quá trình điều tra đã tiến hành trưng cầu giám định, cụ thể như sau:

Tại Biên bản mở niêm phong xác định chất bột khô màu trắng thu giữ của Vàng A Ch, Vàng Gió Ch có tổng khối lượng là 1,1 gam. Trong quá trình mở niêm phong Ch, Ch có mặt và không có ý kiến gì. Tại kết luận giám định số 16/GĐ – KTHS ngày 25/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu, kết luận: chất bột khô, màu trắng thu giữ của Vàng A Ch, Vàng Gió Ch gửi giám định là ma túy, loại Heroine.

Tại phiên tòa, các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của bản thân, lời nhận tội của các bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản mở niêm phong, lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra, kết quả giám định, cùng các tài liệu chứng cứ thu thập hợp pháp trong quá trình điều tra, cụ thể như sau: Vào khoảng 17 giờ 50 phút ngày 16/12/2020 khi Ch và Ch đi đến quốc lộ 4H thuộc bản Pa Mu, xã Hua Bum, huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu thì bị tổ công tác Công an xã Hua Bum phát hiện bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép 1,1 gam Heroine với mục đích để sử dụng thì bị phát hiện.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Lại Quang S – sinh năm: 1987: Trong đơn ông trình bày Vàng A Ch có mua trả góp chiếc xe máy HONDA nhãn hiệu BLADE với giá 22 triệu đồng, Vàng A Ch đã trả cho cửa hàng 12 triệu, nợ lại 10 triệu đồng, do Cha chưa trả hết tiền nên cửa hàng còn giữ lại đăng ký và biển số xe sau khi hoàn tất hợp đồng sẽ trả nhưng Vàng A Ch vẫn chưa thanh toán hết. Ông đề nghị gia đình Ch thanh toán số tiền trên và đề nghị được vắng mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Vàng Le X – sinh năm 1970 là bố đẻ của bị cáo Ch và đại diện cho gia đình trình bày: Chiếc xe mà Ch sử dụng vào việc đi phạm tội gia đình không biết, chiếc xe đó là tài sản chung của gia đình, số tiền mà Ch đi mua xe máy là tiền của gia đình, gia đình có chiếc xe máy là phương tiện duy nhất nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét trả lại cho gia đình.

Về các vấn đề khác của vụ án:

Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho các bị cáo quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ nên Hội đồng xét xử không có căn cứ để xem xét.

Về vật chứng khác thu giữ được:

+ 02 gói Heroine trong đó 01 gói được bọc 05 lớp bằng nilon màu hồng; 01 gói được bọc bằng 03 lớp nilon màu hồng (đã gửi toàn bộ đi giám định; cơ quan giám định không hoàn lại mẫu vật).

+ 01 xe máy nhãn hiệu HONDA – số loại BLADE màu sơn đỏ - đen không có biển kiểm soát số máy JA 36E 0850370, số khung 3639LY002064. (Xe đã qua sử dụng, không kiểm tra chi tiết bên trong).

+ 01 mũ chùm cằm màu đỏ, trên đỉnh mũ có ghi chữ: ASIA – HELMETAL(Mũ bảo hiểm) Cáo trạng số 08/CT – VKS ngày 01 tháng 4 năm 2021 của VKSND huyện Nậm Nhùn truy tố các bị can Vàng A Ch, Vàng Gió Ch về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của BLHS.

Tại phiên tòa các bị cáo Vàng A Ch, Vàng Gió Ch thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và không có ý kiến khiếu nại gì.

Tại phiên tòa vị đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Bộ luật hình sự xử phạt: Vàng A Ch từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58 Bộ luật hình sự xử phạt: Vàng Gió Ch từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

Áp dụng khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền hoặc tịch thu tài sản cho các bị cáo. Trả lại cho gia đình bị cáo 01 Chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA – số loại BLADE màu sơn đỏ - đen không có biển kiểm soát số máy JA 36E 0850370, số khung 3639LY002064 cho gia đình bị cáo. Về trách nhiệm dân sự: Không. Về vật chứng áp dụng khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự: đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 mũ chùm cằm màu đỏ, trên đỉnh mũ có ghi chữ: ASIA – HELMETAL(Mũ bảo hiểm). Áp dụng Điều 30 Bộ luật tố tụng hình sự đề nghị HĐXX tách yêu cầu của ông Lại Quang S giải quyết theo thủ tục Tố tụng dân sự khi có yêu cầu.

Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa người bào chữa cho các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58 Bộ luật hình sự xem xét cho các bị cáo được giảm nhẹ mức hình phạt, đề nghị HĐXX xem xét trả lại xe cho gia đình bị cáo Ch, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo. Đại diện Viện kiểm sát, các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và người bào chữa không có ý kiến tranh luận và đối đáp gì.

Lời nói sau cùng của bị cáo Vàng A Ch: Bị cáo biết việc làm của mình là vi phạm pháp luật bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.

Lời nói sau cùng của bị cáo Vàng Gió Ch: Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để bị cáo sớm trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện Nậm Nhùn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nậm Nhùn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình chuẩn bị xét xử và xét xử tại phiên tòa các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác đều không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội:

Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với nội dung của bản cáo trạng mà Viện kiểm sát truy tố, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án như biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản mở niêm phong xác định trọng lượng, kết luận giám định và lời khai của người tham gia tố tụng khác… được xem xét và thẩm tra công khai tại phiên tòa. Vào khoảng 17 giờ 50 phút ngày 16/12/2020 khi Ch và Ch đi đến quốc lộ 4H thuộc bản Pa Mu, xã Hua Bum, huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu thì bị tổ công tác Công an xã Hua Bum phát hiện bắt quả tang Ch và Ch về hành vi tàng trữ trái phép 1,1 gam Heroine với mục đích để sử dụng thì bị phát hiện.

Các bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, do ham chơi đua đòi nên các bị cáo đã bàn bạc mua Heroine về với mục đích để sử dụng. Các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, hành vi này là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước về ma túy. Ma túy là loại dược tố độc hại, làm kiệt quệ kinh tế gia đình, gây sự suy thoái đạo đức, lối sống trong xã hội và làm ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội, là nguyên nhân dẫn đến nhiều loại tội phạm khác. Hành vi của các bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Xét vai trò của các bị cáo trong vụ án, Hội đồng xét xử thấy rằng: Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, bị cáo Vàng A Ch là người trực tiếp khởi sướng việc mua ma túy và góp tiền 150.000 đồng, về nhà lấy xe máy của gia đình để đưa hai bị cáo cùng đi mua ma túy để sử dụng, bị cáo Vàng Gió Ch góp tiền 150.000 đồng cùng Cha đi mua ma túy để sử dụng, trên đường đi về cả hai bị cáo bị bắt về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Do đó, quan điểm xử lý trách nhiệm hình sự của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa đối với các bị cáo là hoàn toàn có cơ sở, không oan sai, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Về nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo:

Đối với bị cáo Vang A Ch Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo còn trẻ nhưng ham chơi đua đòi, đã sử dụng ma túy nhiều lần, tuy nhiên trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử tại phiên tòa bị cáo đều đã thể hiện sự ăn năn hối cải, thành khẩn khai báo, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bên cạnh đó bị cáo là người dân tộc thiểu số, nhận thức pháp luật còn hạn chế, sinh sống ở vùng sâu vùng xa có hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên Tòa cần coi đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự Về Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Đối với bị cáo Vàng Gió Ch Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo còn trẻ nhưng ham chơi đua đòi, đã sử dụng ma túy nhiều lần, tuy nhiên trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử tại phiên tòa bị cáo đều đã thể hiện sự ăn năn hối cải, thành khẩn khai báo, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bên cạnh đó bị cáo là người dân tộc thiểu số, gia đình thuộc hộ nghèo và cận nghèo sinh sống ở vùng sâu vùng xa có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, bị cáo không biết chữ, nhận thức pháp luật còn hạn chế nên Tòa cần coi đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự Về Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Trên cơ sở xem xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, vai trò, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của các bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, các bị cáo đều là người thực hành tích cực thực hiện tội phạm, trong vụ án này bị cáo Vàng A Ch có vai trò chủ động rủ bị cáo Vàng Gió Ch đi mua ma túy cùng sử dụng, tích cực nên cần phải áp dụng mức hình phạt tù tương xứng mới đủ răn đe, giáo dục cũng như công tác phòng ngừa chung trong xã hội. Bị cáo Vàng Gió Ch có vai trò đồng phạm là người giúp sức tích cực, bị cáo cùng góp tiền với bị cáo Ch để thực hiện tội phạm. HĐXX cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ và nhân thân đối với các bị cáo để đưa ra mức hình phạt đảm bảo trừng trị và giáo dục các bị cáo ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa các bị cáo phạm tội mới; giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm. Tại phiên tòa người bào chữa cho các bị cáo cũng đề nghị giảm nhẹ mức hình phạt cho các bị cáo.

[4] Về vật chứng của vụ án:

+ 02 gói Heroine trong đó 01 gói được bọc 05 lớp bằng nilon màu hồng; 01 gói được bọc bằng 03 lớp nilon màu hồng (đã gửi toàn bộ đi giám định; cơ quan giám định không hoàn lại mẫu vật).

+ 01 xe máy nhãn hiệu HONDA – số loại BLADE màu sơn đỏ - đen không có biển kiểm soát số máy JA 36E 0850370, số khung 3639LY002064. (Xe đã qua sử dụng, không kiểm tra chi tiết bên trong).

+ 01 mũ chùm cằm màu đỏ, trên đỉnh mũ có ghi chữ: ASIA – HELMETAL(Mũ bảo hiểm)

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy mục đích tàng trữ trái phép chất ma túy của các bị cáo là để sử dụng nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo.

[6] Về các vấn đề liên quan:

Đối với người đàn ông bán ma túy cho các bị cáo, do không biết lai lịch, địa chỉ nên HĐXX không có căn cứ để xử lý.

Đối với đề nghị của Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Lại Quang S – sinh năm: 1987: Trong đơn ông trình bày Vàng A Cha có mua trả góp chiếc xe máy HONDA nhãn hiệu BLADE với giá 22 triệu đồng, Vàng A Ch đã trả cho cửa hàng 12 triệu, nợ lại 10 triệu đồng, do Ch chưa trả hết tiền nên cửa hàng còn giữ lại đăng ký và biển số xe sau khi hoàn tất hợp đồng sẽ trả nhưng Vàng A Ch vẫn chưa thanh toán hết. Ông đề nghị gia đình Cha thanh toán số tiền trên và đề nghị được vắng mặt tại phiên tòa. Hội đồng xét xử xét thấy chiếc xe máy có liên quan đến hợp đồng mua bán trả góp có điều kiện giữa các bên nên đối với đề nghị của ông Sỹ sẽ tách ra giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự khi có yêu cầu.

Đối với đề nghị của Ông Vàng Le X – sinh năm 1970 là bố đẻ của bị cáo Cha và đại diện cho gia đình trình bày: Chiếc xe mà Cha sử dụng vào việc đi phạm tội gia đình không biết, chiếc xe đó là tài sản chung của gia đình, số tiền mà Ch đi mua xe máy là tiền của gia đình, gia đình có chiếc xe máy là phương tiện duy nhất nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét trả lại cho gia đình. Xét thấy việc mua chiếc xe máy của Cha là tài sản xuất phát từ tiền của gia đình bị cáo nên xét thấy cần trả lại chiếc xe cho gia đình bị cáo.

[7] Về án phí hình sự: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 17, Điều 47, Điều 58 của Bộ luật hình sự. Điều 106, Điều 136, Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội đối với các bị cáo; Tuyên bố các bị cáo Vàng A Ch, Vàng Gió Ch phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

1. Về hình phạt:

- Xử phạt bị cáo Vàng A Ch 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 17/12/2020. Miễn hình phạt tiền đối với bị cáo.

- Xử phạt bị cáo Vàng Gió Ch 14 (Mười bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 17/12/2020. Miễn hình phạt tiền đối với bị cáo.

Về vật chứng của vụ án:

- Trả lại cho Ông Vàng Le X – sinh năm 1970 (là bố của bị cáo Vàng A Ch) Địa chỉ: Bản Sín Ch B, xã Pa Vệ S, huyện Mường T, tỉnh Lai Châu. 01 (một) xe máy nhãn hiệu HONDA – số loại BLADE màu sơn đỏ - đen không có biển kiểm soát số máy JA 36E 0850370, số khung 3639LY002064. (Xe đã qua sử dụng, không kiểm tra chi tiết bên trong).

- Tịch thu tiêu hủy 01 (Một) mũ chùm cằm màu đỏ, trên đỉnh mũ có ghi chữ: ASIA – HELMETAL(Mũ bảo hiểm) (Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 06/4/2021 giữa Công an huyện Nậm Nhùn và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nậm Nhùn) 2. Về án phí: Các bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Các Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

160
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 20/2021/HS-ST ngày 12/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:20/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nậm Nhùn - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;