Bản án 20/2021/HNGĐ-ST ngày 26/04/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẨM PHẢ - TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 20/2021/HNGĐ-ST NGÀY 26/04/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

 Trong ngày 26/4/2021, tại Hội trường xét xử 2, Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm C khai vụ án dân sự thụ lý số:344/2020/TLST-HNGĐ, ngày 16 tháng 10 năm 2020 về việc: Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôntheo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2021/QĐXXST- HNGĐ, ngày 06/4/2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Đàm Thị Thu H; Sinh năm: 1988; Nghề nghiệp: Giáo viên.

Nơi ĐKNKTT: Tổ 3, khu B, phường C, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh;

Chỗ ở hiện nay: Tổ 5, khu H, phường C, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh. (Có mặt) 

- Bị đơn: Anh Nguyễn Thành C; Sinh năm: 1983; Nghề nghiệp: Lao động tự do.

Nơi ĐKNKTT: Tổ 3, khu B, phường C, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh. Hiện đang thi hành án hình phạt tù tại: Phân trại số 2 - Trại giam C an tỉnh Quảng Ninh; Địa chỉ: Thôn Đồng Vải, xã Thống Nhất, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. (Vắng mặt – Có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 11/11/2020 và trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn chị Đàm Thị Thu H trình bày:

Chị và anh Nguyễn Thành C kết hôn năm 2009 trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn hợp pháp tại Ủy ban nhân dân phường Cẩm Bình, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh. Trước khi kết hôn có thời gian tìm hiểu nhau khoảng 01 năm. Sau khi kết hôn, chị và anh Nguyễn Thành C về chung sống cùng gia đình chồng tại: Tổ 3, khu Bình Minh, phường Cẩm Bình, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh. Cuộc sống chung của vợ chồng thời gian đầu có hạnh phúc nhưng đến khoảng năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do anh Nguyễn Thành C chơi bời, dính vào tệ nạn xã hội. Chị và anh Nguyễn Thành C đã tìm biện pháp khắc phục nhưng chỉ có kết quả trong thời gian ngắn rồi anh Nguyễn Thành C lại quay trở lại con đường cũ, hai vợ chồng tiếp tục xảy ra mâu thuẫn. Hai bên gia đình đã nhiều lần khuyên răn nhưng không đem lại kết quả, anh Nguyễn Thành C vẫn không thay đổi, anh C vẫn tiếp tục sa vào tệ nạn xã hội và đã bị Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả xét xử, buộc phải chấp hành hình phạt tù và hiện nay đang thi hành án phạt tù tại Trại giam Quảng Ninh – phân trại số 2. Xét thấy cuộc sống chung không thể kéo dài, sự việc mâu thuẫn của vợ chồng ngày càng trầm trọng nên vợ chồng chị đã sống ly thân từ tháng 4/2019. Chị xác định chị không còn tình cảm với anh C, chị yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả giải quyết cho chị ly hôn với anh Nguyễn Thành C.

Quá trình chung sống chị và anh Nguyễn Thành C có một con chung là Nguyễn Tâm Đ, sinh ngày 11/8/2011. Khi ly hôn, chị đề nghị được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung cho đến khi con chung đủ 18 tuổi; chị không yêu cầu anh Nguyễn Thành C phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và C nợ chung: Chị và anh Nguyễn Thành C không có tài sản chung và C nợ chung, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn là anh Nguyễn Thành C, tại thời điểm thụ lý vụ án, anh Nguyễn Thành C đang bị tạm giam tại trại tạm giam C an tỉnh Quảng Ninh. Ngày 07/01/2021 tại Trại tạm giam C an tỉnh Quảng Ninh, anh Nguyễn Thành C đã viết bản tự khai, đơn xin xử án vắng mặt, C trình bày quan điểm của anh về yêu cầu xin ly hôn của chị H như sau:

Điều kiện hoàn cảnh kết hôn, tình trạng hôn nhân giữa anh và chị H đúng như chị H đã trình bày; anh C xác nhận nguyên nhân dẫn đến tình trạng hôn nhân giữa anh và chị H là do lỗi của anh, mâu thuẫn giữa hai người không hòa giải được, vậy nên chị H có yêu cầu xin ly hôn thì anh đồng ý.

Quá trình chung sống anh và chị H có một con chung là Nguyễn Tâm Đ, sinh ngày 11/8/2011. Khi ly hôn, anh đồng ý giao con chung cho chị H được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi con chung đủ 18 tuổi, chị H không yêu cầu anh cấp dưỡng nuôi con chung, anh đồng ý.

Anh và chị không có tài sản chung và C nợ chung, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong thời hạn chuẩn bị xét xử, Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả đã tiến hành xác minh thu thập chứng cứ, tại Biên bản xác minh, thu thập chứng cứ ngày 12/3/2021 tại tổ 3, khu Bình Minh, phường Cẩm Bình, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh, thể hiện nội dung: Chị Đàm Thị Thu H và anh Nguyễn Thành C là C dân có đăng ký hộ khẩu thường trú tại tổ 3, khu Bình Minh, phường Cẩm Bình, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh. Trong quá trình sinh sống tại khu phố anh C và chị H chung sống với nhau hạnh phúc được một thời gian khoảng 05 năm, đến khi anh C mải mê chơi bời, sa vào những tệ nạn xã hội thì vợ chồng anh chị xảy ra mâu thuẫn, năm 2014 mâu thuẫn trở nên gay gắt hơn, hai vợ chồng thường xuyên xảy ra tranh cãi, bất đồng về quan điểm sống thế nhưng được hai bên gia đình khuyên bảo nên hai vợ chồng đã khắc phục được mâu thuẫn để cùng nhau xây dựng hạnh phúc gia đình. Tuy nhiên khu phố thấy, chỉ được một thời gian ngắn vợ chồng chị H và anh C lại tiếp tục xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn vẫn là do anh C không thực sự thay đổi về suy nghĩ và cách sống, vẫn ham chơi, đua đòi, sa đọa vào tệ nạn xã hội ma túy dẫn đến vợ chồng bất hòa, mâu thuẫn ngày càng căng thẳng. Năm 2019 chị H cùng với con gái đã chuyển đi nơi khác sinh sống hai vợ chồng ly thân từ đó đến nay. Mâu thuẫn của vợ chồng chị H đã quá trầm trọng, anh C hiện nay đang phải chịu án phạt tù, mâu thuẫn không thể khắc phục được vậy nên nếu chị H có đơn đề nghị xin ly hôn thì Tòa án xem xét giải quyết cho chị H sớm ổn định cuộc sống. Về con chung thì chị H và anh C có 01 con chung là cháu Nguyễn Tâm Đan, sinh ngày 11/8/2011. Hiện nay, theo khu phố nắm được thì con chung đang sống cùng chị H. Vì điều kiện của anh C hiện tại đang chấp hành án hình phạt tù nên đề nghị Tòa án xem xét giao con chung cho chị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục để đảm bảo điều kiện sống và phát triển cho cháu Nguyễn Tâm Đan. Về tài sản chung và C nợ chung của chị H và anh C thì khu phố không nắm được.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán; Hội đồng xét xử đã tiến hành các thủ tục tố tụng để giải quyết vụ án theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân. Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Đàm Thị Thu H, căn cứ hồ sơ vụ án, các tài liệu, chứng cứ đã được Hội đồng xét xử xem xét và kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân gia đình, chấp nhận đơn khởi kiện của chị Đàm Thị Thu H, cho chị Đàm Thị Thu H được ly hôn với anh Phạm Thành C, giao cho chị Đàm Thị Thu H quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung Nguyễn Tâm Đan, sinh ngày 11/8/2011 cho đến khi thành niên; anh Nguyễn Thành C không phải cấp dưỡng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn là anh Nguyễn Thành C có nơi cư trú tại phường Cẩm Bình, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh, nên yêu cầu xin ly hôn của chị Đàm Thị Thu H thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Nguyên đơn là chị Đàm Thị Thu H có mặt; Bị đơn là anh Nguyễn Thành C vắng mặt nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; căn cứ khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn, có mặt nguyên đơn.

[2] Hôn nhân giữa chị Đàm Thị Thu H và anh Nguyễn Thành C có đăng kí kết hôn ngày 27/7/2009 tại Ủy ban nhân dân phường Cẩm Bình, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh, trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, chị H và anh C về chung sống cùng gia đình anh C tại: Tổ 3, khu Bình Minh, phường Cẩm Bình, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh. Cuộc sống chung của vợ chồng thời gian đầu có hạnh phúc nhưng đến khoảng năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do anh Nguyễn Thành C chơi bời, dính vào tệ nạn xã hội. Chị H và anh C đã tìm biện pháp khắc phục nhưng chỉ có kết quả trong thời gian ngắn rồi anh C lại quay trở lại con đường cũ, hai vợ chồng tiếp tục xảy ra mâu thuẫn. Hai bên gia đình đã nhiều lần khuyên răn nhưng không đem lại kết quả, anh C vẫn không thay đổi, anh C vẫn tiếp tục sa vào tệ nạn xã hội và đã bị Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả xử phạt tù và hiện nay đang thi hành án tại Trại giam Quảng Ninh – phân trại số 2, hai người đã sống ly thân từ tháng 4/2019, nay chị H xin ly hôn, anh C cũng đồng ý.

Toà án nhân dân thành phố Cẩm đã xác minh tình trạng hôn nhân của chị H và anh C tại nơi hai người sinh sống, nội dung xác minh đúng như chị H trình bày, đúng như quan điểm của anh C.

Từ các dẫn chứng trên, Hội đồng xét xử xét thấy hôn nhân giữa chị H và anh C cuộc sống chung giữa hai người không còn tồn tại, mỗi người sống một nơi không ai quan tâm đến ai, cả chị H và anh C đều xác định hai người không thể hàn gắn tình cảm vợ chồng, chị H xin ly hôn, anh C cũng đồng ý. Tình trạng hôn nhân giữa chị H và anh C đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân gia đình, chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Đàm Thị Thu H.

[4] Chị H và anh C có 01 con chung là Nguyễn Tâm Đ, sinh ngày 11/8/2011. Khi ly hôn, chị H đề nghị chị được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung và không yêu cầu anh C phải cấp dưỡng. Đối với yêu cầu này của chị H, Hội đồng xét xử xét thấy, hiện nay chị H là giáo viên, có thu nhập ổn định có đủ điều kiện để chăm sóc nuôi dưỡng con chung, còn anh C hiện nay đang chấp hành án phạt tù tại trại giam, đang bị cách ly khỏi xã hội, vì vậy giao cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng con chung là đảm bảo con chung được nuôi dưỡng tốt nhất trong điều kiện hiện nay của chị H và anh C. Chị H không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con chung, xét thấy đề nghị này là tự nguyện, nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Chị H xác định chị và anh C không có tài sản chung và không có C nợ chung, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết; tại bản tự khai ngày 07/01/2021 anh C thống nhất quan điểm này của chị H, nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

[6] Về án phí: Chị Đàm Thị Thu H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điều 28, Điều 35, Điều 39, khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 227;khoản 1 Điều 228; Điều 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Áp dụng: Điều 56, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Đàm Thị Thu H.

Cho chị Đàm Thị Thu H được ly hôn với anh Nguyễn Thành C.

Giao cho chị Đàm Thị Thu H quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung Nguyễn Tâm Đ, sinh ngày 11/8/2011 cho đến khi thành niên (đủ 18 tuổi). Anh Nguyễn Thành C không phải cấp dưỡng nuôi con chung; anh Nguyễn Thành C có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

Về tài sản chung và nợ chung: Đương sự không yêu cầu, Tòa án không giải quyết.

Về án phí: Chị Đàm Thị Thu H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị Đàm Thị Thu H đã nộp tại Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0005594, ngày 02/12/2020 của Chi cục Thi thành án dân sự thành phố Cẩm Phả. Chị H đã nộp đủ án phí.

Án xử C khai sơ thẩm, có mặt nguyên đơn, vắng mặt bị đơn, báo cho nguyên đơn, bị đơn biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, đối với nguyên đơn kể từ ngày tuyên án, đối với bị đơn kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 20/2021/HNGĐ-ST ngày 26/04/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:20/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cẩm Phả - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;