Bản án 20/2021/HNGĐ-ST ngày 25/06/2021 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐAN PHƯỢNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

 BẢN ÁN 20/2021/HNGĐ-ST NGÀY 25/06/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 25 tháng 6 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 55/2021/TLST- HNGĐ ngày 22 tháng 3 năm 2021 về việc Ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 26/2019/QĐXX-ST ngày 12 tháng 5 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 30/2021/QĐST-HNGĐ ngày 04 tháng 6 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Bùi Thị T, sinh năm 1992; có mặt.

Địa chỉ: Cụm 1, xã T, huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Hữu T, sinh năm 1986; có mặt.

Địa chỉ: Cụm 12, xã T, huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện và các lời khai, nguyên đơn chị Bùi Thị T trình bày:

Chị kết hôn với anh Nguyễn Hữu T vào năm 2009. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống đến năm 2014 thì xảy ra mâu thuẫn, anh T đã có đơn xin ly hôn chị và hai bên đã thuận tình ly hôn tại Tòa án. Sau đó một năm, anh T có quan tâm đến chị và muốn quay lại nên chị đồng ý. Ngày 01/9/2016 chị và anh T đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Tân Hội, huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội. Sau khi kết hôn lại, vợ chồng chung sống hạnh phúc được thời ngắn rồi lại phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh T chơi cờ bạc, rượu chè mà không quan tâm đến chị. Chị đã tha thứ nhiều lần nhưng anh T không thay đổi nên tháng 12/2020 chị đã về nhà bố mẹ đẻ sinh sống. Trong thời gian ly thân anh T cũng không hỏi han, quan tâm gì đến chị. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng giữa chị và anh T không còn nên chị xin được ly hôn.

Về con chung: Không có.

Tài sản chung, công sức với hai bên gia đình, về nợ: Vợ chồng không có tài sản, công sức và nợ chung.

- Bị đơn anh Nguyễn Hữu T từ khi thụ lý vụ án đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt.

Tại phiên tòa hôm nay, chị Bùi Thị T giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn. Anh Nguyễn Hữu T có mặt tại phiên tòa và trình bày: Về diều kiện kết hôn, quá trình sống chung như chị T trình bày là đúng. Giữa anh và chị T trong sống chung do bất đồng quan điểm, do anh chơi bời và không quan tâm đến chị T, vợ chồng kết hôn đã lâu nhưng không có con chung nên dẫn đến mâu thuẫn. Khi chị T có đơn xin ly hôn và Tòa án báo gọi thì anh có biết nhưng do đi làm ở xa nên anh không đến được Tòa án để giải quyết. Nay chị T xin ly hôn, anh đồng ý ly hôn. Về con chung, tài sản, công sức và nợ chung không có.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đan Phượng tại phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật của những người T hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng trình tự, đúng quy định pháp luật. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử và Thư ký tòa án thực hiện đúng qui định Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Đại diện Viện kiểm sát nhận định giữa chị Bùi Thị T và anh Nguyễn Hữu T tình cảm vợ chồng đã mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 56 Luật hôn và nhân gia đình xử cho chị T được ly hôn với anh T. Về con chung, tài sản và nợ không có nên không đề nghị giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Chị Bùi Thị T có đơn khởi kiện về việc xin ly hôn với anh Nguyễn Hữu T có địa chỉ tại Cụm 12, xã Tân Hội, huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội, đây là quan hệ tranh chấp về Hôn nhân và gia đình nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt đầy đủ các văn bản tố tụng cho anh Nguyễn Hữu T, tuy nhiên anh T vắng mặt không đến Tòa án. Vì vậy, căn cứ khoản 1 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.

Tại phiên tòa hôm nay, anh Nguyễn Hữu T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai và đã có mặt tại phiên tòa. Anh T đã được trình bày và thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình nên Tòa án T hành xét xử vụ án theo trình tự, thủ tục pháp luật tố tụng dân sự qui định.

[2] Về nội dung vụ án: Chị Bùi Thị T và anh Nguyễn Hữu T xác lập quan hệ hôn nhân từ năm 2009. Tuy nhiên, do mâu thuẫn trong cuộc sống chung nên hai bên đã ly hôn tại Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 04/2015/QĐST-HNGĐ ngày 23/01/2015 của Tòa án nhân dân huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội. Đến ngày 01/9/2016 chị Bùi Thị T và anh Nguyễn Hữu T đăng ký kết hôn lại tại Uỷ ban nhân dân xã Tân Hội, huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội. Như vậy, quan hệ hôn nhân của chị T và anh T được xác lập trên cơ sở tự nguyện, là hôn nhân hợp pháp theo quy định khoản 1 Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình.

Giữa chị Bùi Thị T và anh Nguyễn Hữu T từ năm 2016 sau khi tái hôn, thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, rồi lại tiếp tục phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn được cả hai bên xác định là do anh T chơi bời và không quan tâm đến chị T, một phần là do vợ chồng kết hôn đã lâu nhưng không có con. Từ tháng 12/2020 đến nay thì vợ chồng sống ly thân. Nay chị T xin ly hôn, anh T đồng ý ly hôn.

Như vậy, có căn cứ xác định trong quá trình chung sống giữa chị Bùi Thị T và anh Nguyễn Hữu T đã xảy ra mâu thuẫn, tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không còn tồn tại, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị T với anh T.

[3] Về con chung: Chị Bùi Thị T và anh Nguyễn Hữu T không có con chung nên Hội đồng xét xử không phải xem xét.

[4] Tài sản, công sức đóng góp với hai bên gia đình, về nợ: Chị Bùi Thị T, anh Nguyễn Hữu T không có nên Hội đồng xét xử không phải xem xét, giải quyết.

[5] Án phí, quyền kháng cáo: Chị Bùi Thị T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo qui định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ Ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chị Bùi Thị T và anh Nguyễn Hữu T có quyền kháng cáo bản án theo qui định tại Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 56; Điều 57 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147, 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ Ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc xin ly hôn của chị Bùi Thị T. Chị Bùi Thị T được ly hôn với anh Nguyễn Hữu T.

2. Về con chung: Không có.

3. Tài sản chung, công sức, về nợ: Chị Bùi Thị T, anh Nguyễn Hữu T không có tài sản, công sức và nợ chung nên Hội đồng xét xử không phải giải quyết.

4. Về án phí: Chị Bùi Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí chị Bùi Thị T đã nộp tại Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0014799 ngày 22/3/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đan Phượng, Thành phố Hà Nội.

5. Quyền kháng cáo: Chị Bùi Thị T, anh Nguyễn Hữu T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

239
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 20/2021/HNGĐ-ST ngày 25/06/2021 về ly hôn

Số hiệu:20/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đan Phượng - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;