Bản án 20/2021/HNGĐ-ST ngày 20/01/2021 về tranh chấp ly hôn và nuôi con 

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN G, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 20/2021/HNGĐ-ST NGÀY 20/01/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 20 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện G, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 446/2020/TLST- HNGĐ ngày 16 tháng 11 năm 2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 120/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: chị Nguyễn Thị Thu E; sinh năm 1993 (Có đơn xin xử vắng mặt).

NKTT và cư trú tại: Thôn B, xã D, huyện G, Thành phố Hà Nội.

2. Bị đơn: anh Vũ Xuân Q; sinh năm 1989 (Vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai) NKTT và cư trú tại: Thôn R, xã D, huyện G, Thành phố Hà Nội.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 13/11/2020 và các lời khai tại tòa, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Thu E trình bày:

Tôi và anh Vũ Xuân Q kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã D, huyện G, thành phố Hà Nội ngày 06/08/2012. Quá trình chung sống, vợ chồng thường xuyên cãi vã, mắng chửi nhau. Nguyên nhân là do anh Q không chịu làm ăn để phát triển kinh tế gia đình. Từ khi anh Q chấp hành xong án phạt tù trở về thì tính tình thay đổi nhiều, không những không chịu làm ăn mà còn cầm cố hết tài sản trong nhà khiến kinh tế gia đình ngày càng khó khăn. Anh Q thường xuyên bỏ bê vợ con, không quan tâm đến gia đình, hay đi giao du, ăn nhậu với bạn bè bên ngoài.

Từ năm 2017 tôi và anh Q sống ly thân, hai vợ chồng chấm dứt hoàn toàn quan hệ tình cảm và quan hệ sinh lý từ đó cho tới nay. Kể từ khi ly thân, tôi đi làm xa để kiếm tiền thì anh Q hay đến gia đình bố mẹ đẻ của tôi để chửi bới và gây sự khiến tôi lo sợ không dám về thăm nhà.

Nay tôi xác định tình cảm vợ chồng đã hết, yêu cầu Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn với anh Vũ Xuân Q.

Tôi và anh Q có 01 con chung là Vũ Bảo C, sinh ngày 09/02/2013. Khi ly hôn, yêu cầu Tòa án giải quyết cho tôi được trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng con chung là Vũ Bảo C. Tôi không yêu cầu anh Q phải cấp dưỡng nuôi con khi ly hôn.

Về tài sản chung: Tôi không yêu cầu Tòa án giải quyết. Chúng tôi không có nợ chung vợ chồng.

Ngoài ra tôi không có yêu cầu nào khác.

Bị đơn anh Vũ Xuân Q không giao nộp bản tự khai cho Tòa án, không đồng ý Tòa án ghi lời khai, có mặt tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và Q giải, trình bày ý kiến về việc giải quyết vụ án nhưng không ký các biên bản công khai chứng cứ và biên bản Q giải. Tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và Q giải, anh Q trình bày: Thừa nhận việc kết hôn, con chung, tài sản chung, nợ chung như như chị E trình bày là đúng. Về mâu thuẫn vợ chồng, anh Q trình bày do chị E tự ý bỏ nhà anh Q đi, anh Q có đi tìm nhưng không tìm được. Chị E xin ly hôn, anh Q không đồng ý ly hôn vì chị E tự ý đi ra ngoài sống không có ý kiến gì với anh Q là không được, anh Q không chấp nhận cách hành xử của chị E, giờ chị E muốn đi đâu thì đi nhưng anh Q không đồng ý ly hôn. Anh Q không có giải pháp đoàn tụ. Anh Q không đồng ý giao con chung cho chị E nuôi dưỡng nhưng cũng không có khả năng nuôi dưỡng mà đề nghị đưa con chung vào trung tâm bảo trợ xã hội nuôi dưỡng. Anh Q không yêu cầu giải quyết về tài sản chung vợ chồng.

Tại phiên tòa hôm nay chị E vắng mặt vì đã có đơn xin xử vắng mặt. Anh Q vắng mặt lần hai không có lý do nên Tòa án tiến hành xét xử theo thủ tục vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:

Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự như xác định đúng quan hệ pháp luật, đúng thẩm quyền, xác định đúng tư cách người tham gia tố tụng, cũng như quá trình thu thập chứng cứ đảm bảo đúng quy định.

Các thành viên Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa có mặt đúng như trong quyết định, tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự tại phiên tòa.

Đối với những người tham gia tố tụng: Nguyên đơn chấp hành đầy đủ và đúng quy định trong quá trình giải quyết vụ án; bị đơn không chấp hành đầy đủ các quy định về quyền và nghĩa vụ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử cũng như tại phiên tòa.

Về nội dung giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Huơng; xử cho chị E được ly hôn anh Q; về con chung giao cho chị E trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc con chung Vũ Bảo C sinh ngày 09/02/2013, chị E không yêu cầu anh Q cấp dưỡng nuôi con nên cần chấp nhận việc tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho đến khi có yêu cầu mới.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra công khai tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên thấy rằng:

[1] Về tố tụng: Chị Nguyễn Thị Thu E xin ly hôn với anh Vũ Xuân Q đang cư trú tại thôn R, xã D, huyện G, thành phố Hà Nội nên Tòa án nhân dân huyện G thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự. Chị E và anh Q đã được cấp tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, tại phiên tòa hôm nay chị E có đơn xin xử vắng mặt còn anh Q đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử theo thủ tục vắng mặt nguyên đơn và bị đơn theo quy định tại Điều 227 và 228 Bộ luật tố tụng dân sự là đúng. Xét ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật nên cần chấp nhận.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Thu E kết hôn với anh Vũ Xuân Q trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã D, huyện G, thành phố Hà Nội ngày 06/08/2012 nên đây là một hôn nhân hợp pháp.

Sau khi kết hôn, chị E và anh Q chung sống đến năm 2017 thì hai vợ chồng ly thân cho đến nay. Nguyên nhân mâu thuẫn xác định là vợ chồng bất đồng quan điểm sống, lối sống cũng như quan điểm phát triển kinh tế gia đình dẫn tới thường xuyên xảy ra xích mích, cãi chửi nhau. Nay chị E xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án xử cho chị được ly hôn với anh Q.

Đối với anh Q, Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng và giải thích rõ nội dung cũng như quyền lợi, nghĩa vụ về việc nhận văn bản tố tụng cho anh Vũ Xuân Q, Tuy nhiên anh Q từ chối không ký nhận các văn bản tố tụng của Tòa án, không nộp bản tự khai, không đồng ý để Tòa án lấy lời khai của mình và tại phiên Q giải, anh Q trình bày về mâu thuẫn vợ chồng là do chị E tự ý bỏ nhà anh Q đi, anh Q có đi tìm nhưng không tìm được. Nay chị E xin ly hôn, anh Q không đồng ý ly hôn với chị E nhưng anh Q không đưa ra giải pháp đoàn tụ và cho rằng chị E muốn đi đâu thì đi. Như vậy, việc anh Q không đồng ý ly hôn không phải vì mong muốn vợ chồng đoàn tụ, xây dựng hạnh phúc gia đình.

Xét thấy từ năm 2017 đến nay chị E và anh Q đã sống ly thân, chị E kiên quyết xin ly hôn, mặc dù anh Q không đồng ý ly hôn nhưng không có biện pháp nào để vợ chồng về đoàn tụ do vậy có đủ căn cứ xác định tình trạng mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, cuộc sống vợ chồng không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, nên cần chấp nhận yêu cầu của chị E, xử cho chị E được ly hôn anh Q là phù hợp với ý kiến của Kiểm sát viên cũng như phù hợp với khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về quan hệ con chung: Chị Nguyễn Thị Thu E và anh Vũ Xuân Q có 01 con chung là Vũ Bảo C, sinh ngày 09/02/2013 hiện đang ở với chị E tại nhà bố mẹ đẻ của chị E. Khi ly hôn, chị E xin được nuôi con chung và tự nguyện không yêu cầu anh Q cấp dưỡng. Anh Q không nhất trí nhưng cũng không có khả năng nuôi dưỡng con chung mà đề nghị đưa con chung là Vũ Bảo C vào trung tâm bảo trợ xã hội nuôi dưỡng.

Xét thấy chị E có mức thu nhập 7.000.000 đồng/01 tháng. Bản thân con chung Vũ Bảo C muốn ở cùng với mẹ. Hiện con chung đang có cuộc sống ổn định cùng chị E. Do vậy, cần tiếp tục giao con chung cho chị E nuôi dưỡng là phù hợp quy định của pháp luật. Chấp nhận sự tự nguyện của chị E không yêu cầu anh Q cấp dưỡng nuôi con chung nên cần tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho anh Q.

[4] Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị Thu E và anh Vũ Xuân Q không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Thu E phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, 58, 81, 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình; điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1, 3 Điều 228, khoản 4 Điều 147, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án.

1/ Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị Thu E được ly hôn anh Vũ Xuân Q.

2/ Về con chung: Xử giao cho chị E nuôi dưỡng, chăm sóc con chung là Vũ Bảo C, sinh ngày 09/02/2013. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung hàng tháng đối với anh Q cho đến khi có yêu cầu khác.

Không ai được ngăn cản quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung đối với anh Q.

3/Về tài sản chung: Không đặt ra giải quyết.

4/ Về án phí sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Thu E phải chịu toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm và án phí cấp dưỡng nuôi con là 300.000đ, số tiền 300.000đ mà chị E đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai số AA/2010/0005651 ngày 16/11/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện G chuyển thành án phí ly hôn sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm vắng mặt nguyên đơn và bị đơn, báo cho nguyên đơn và bị đơn biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 20/2021/HNGĐ-ST ngày 20/01/2021 về tranh chấp ly hôn và nuôi con 

Số hiệu:20/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Lâm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;