Bản án 20/2021/HNGĐ-ST ngày 04/02/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THOẠI SƠN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 20/2021/HNGĐ-ST NGÀY 04/02/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 04 tháng 02 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 355/2020/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 10 năm 2020 về việc “ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 257/2020/QĐXXST- HNGĐ ngày 24 tháng 12 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 21/2020/QĐST-HNGĐ ngày 13 tháng 01 năm 2021 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị L.T.D, sinh năm 1992.

Địa chỉ: Tổ 5, ấp TĐ, thị trấn O, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. (Có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt).

* Bị đơn: Anh C.R, sinh năm 1992.

Địa chỉ: Tổ 5, ấp TĐ, thị trấn O, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện ngày 06/8/2020 và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị LT.D trình bày như sau: Chị và anh C.R do tìm hiểu và tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2012, không có tổ chức đám cưới nhưng có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật tại Ủy ban nhân dân thị trấn Óc Eo, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang ngày 30/9/2016. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, có 01 con chung tên Chau Thị M N, sinh ngày 22/3/2013. Nhưng đến năm 2013 thì vợ chồng phát sinh những mâu thuẫn nhỏ kéo dài đến năm 2017 mâu thuẫn ngày càng nhiều do anh R thường xuyên ăn nhậu, mỗi lần say sỉn anh R hay quậy phá gia đình và xóm làng, không chăm lo cho gia đình. Chị nhiều lần khuyên nhưng anh R không thay đổi, còn đánh chị. Nhận thấy, tình cảm không còn, cuộc sống hôn nhân không thể hàn gắn và kéo dài nên chị yêu cầu được ly hôn với anh Chau R.

- Về quan hệ con chung: Có 01 con chung tên Chau Thị Mỹ N, sinh ngày 22/3/2013 (đang sống với chị). Sau khi ly hôn chị yêu cầu được nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu cấp dưỡng.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

Do chị D bận công việc không thể đến Tòa án tham gia phiên tòa được. Vì vậy, chị D có đơn xin vắng mặt tại Tòa và yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt chị.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã hai lần triệu tập hợp lệ anh R đến để tiến hành hòa giải nhưng anh R vắng mặt không có lý do và không có lời khai hay ý kiến nên Tòa án không ghi nhận được quá trình hôn nhân, con cái, tài sản cũng như ý kiến của anh R đối với yêu cầu khởi kiện của chị D.

* Ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa:

Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa; Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn là phù hợp với quy định tại Điều 227 khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại các Điều 8, 9, 56, 81, 82, 83, và 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị D. Về hôn nhân: Chị D được ly hôn anh R. Về con chung: Giao cháu Nhân cho chị D được chăm sóc, nuôi dưỡng và anh R không phải cấp dưỡng. Tài sản chung và nợ chung: Không xem xét. Chị D yêu cầu ly hôn nên phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, căn cứ vào lời trình bày của nguyên đơn, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

Chị Liêu Thị D (là nguyên đơn trong vụ án) có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt chị D theo quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự Anh Chau R (là bị đơn trong vụ án) đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên Toà xét xử lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 Toà án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh R.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về hôn nhân: Chị D và anh R kết hôn với nhau vào năm 2016, có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn O, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang ngày 30/9/2016 nên được pháp luật công nhận là vợ chồng hợp pháp theo quy định tại Điều 8 và Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình. Nay vợ chồng chị D và anh R phát sinh mâu thuẫn, chị D xin ly hôn nên Toà án thụ lý, giải quyết là phù hợp với các quy định của pháp luật.

Trong quá trình hôn nhân, chị D cho rằng do anh R thường xuyên ăn nhậu, mỗi lần say sỉn anh R hay quậy phá gia đình và xóm làng, không chăm lo cho gia đình. Chị nhiều lần khuyên nhưng anh R không thay đổi, còn đánh chị. Tòa án đã triệu tập anh R để tham gia phiên hòa giải nhưng anh R cố tình vắng mặt và không trình bày ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của chị D thể hiện anh R không muốn hàn gắn. Xét thấy, hôn nhân giữa chị D và anh R thực tế đã không còn tồn tại, mâu thuẫn phát sinh ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nếu duy trì cuộc hôn nhân này cũng không đem lại hạnh phúc cho cả hai. Do đó, nghĩ nên chấp nhận yêu cầu của chị D được ly hôn với anh R.

[2.2] Về con chung: Vợ chồng anh chị có 01 con chung tên C. T. M. N, sinh ngày 22/3/2013.

Xét thấy, thời gian ly thân, cháu N được chị D chăm sóc, nuôi dưỡng tốt, phát triển bình thường và cháu N cũng có nguyện vọng được sống với chị D. Xuất phát từ lợi ích mọi mặt của cháu N theo khoản 1, khoản 2 điều 81 Luật hôn nhân và gia đình, HĐXX thấy cần giao cháu N cho chị D tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con là nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con, tuy nhiên chị D không yêu cầu anh R phải cấp dưỡng nuôi con chung nên HĐXX không xem xét.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được quyền cản trở. Chị D phải tạo điều kiện cho anh R được thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.

[2.3] Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Chị D không tranh chấp tài sản chung và nợ chung nên HĐXX không xem xét. Nếu sau này giữa chị D và anh R có phát sinh tranh chấp về tài sản chung và nợ chung sẽ được Tòa án thụ lý, giải quyết bằng vụ án khác.

[3] Lời phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa về nội dung giải quyết vụ án là phù hợp với quy định pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Chị D phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, nhưng được khấu trừ tiền tạm ứng án phí chị D đã nộp.

Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, các Điều 147, 227, 228, 271 và 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Các Điều 8, 9, 56, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ Ban Thường Vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Liêu Thị D.

* Về hôn nhân: Chị L.T. D được ly hôn với anh Chau R.

(Giấy chứng nhận kết hôn số 88, ngày 30/9/2016 do Ủy ban nhân dân thị trấn Óc Eo, huyện Thoại Sơn cấp cho chị Liêu Thị D và anh Chau R không còn giá trị pháp lý kể từ ngày 04/02/2021).

* Về con chung: Giao cháu Chau Thị M.N, sinh ngày 22/3/2013 cho chị D được tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.

Anh R không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Anh R có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung mà không ai được cản trở.

Trên cơ sở lợi ích của con, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, Toà án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

* Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

* Về án phí sơ thẩm: Chị Liêu Thị D phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm không có giá ngạch là 300.000 đồng, nhưng được khấu trừ 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0003971 ngày 06 tháng 10 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang.

Chị D và anh R được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

166
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 20/2021/HNGĐ-ST ngày 04/02/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:20/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thoại Sơn - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;