Bản án 20/2020/HS-ST ngày 26/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ML, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 20/2020/HS-ST NGÀY 26/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện ML, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 22/2020/TLST-HS ngày 13 tháng 11 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 22/2020/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

1. Lò Văn P, sinh năm: 1982 tại xã T, huyện U, tỉnh L; Nơi cư trú: Bản H, xã T, huyện U, tỉnh L; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hoá: 0/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Đoàn thể, đảng phái: Không; con ông Lò Văn O (đã chết) và con bà Lò Thị E (đã chết); có vợ là Lò Thị C (tên gọi khác: Đèo Thị C), sinh năm 1984 và 03 con, con lớn nhất sinh năm 2004, con nhỏ nhất sinh năm 2010; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/7/2020 đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

2. Lò Văn C, sinh năm: 1974 tại xã T, huyện U, tỉnh L; Nơi cư trú: Bản H, xã T, huyện U, tỉnh L; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hoá: 0/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Đoàn thể, đảng phái: Không; con ông Lò Văn P (đã chết) và con bà Lò Thị N (sinh năm 1939); có vợ là Lường Thị N, sinh năm 1976 và 03 con, con lớn nhất sinh năm 1995, con nhỏ nhất sinh năm 2002; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/7/2020 đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Lò Văn Th, sinh năm 1997;

nơi cư trú: Bản Hỳ, xã T, huyện U, tỉnh L. Có mặt tại phiên tòa.

- Người phiên dịch: Ông Lò Văn B; địa chỉ: Tiểu khu 3, thị trấn I, huyện ML, tỉnh Sơn La.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 18 giờ 20 phút ngày 29/7/2020, tại khu vực bản PC, xã CL, huyện ML, tỉnh Sơn La, tổ công tác Công an xã CL, huyện ML, tỉnh Sơn La đã phát hiện bắt quả tang Lò Văn P, sinh năm 1982 và Lò Văn C, sinh năm 1974, đều trú tại bản Hỳ, xã T, huyện U, tỉnh L đang có hành vi cất giấu trái phép 01 gói nilon màu hồng, bên trong có chứa 02 (hai) gói nilon màu xanh, bên trong các nilon màu xanh chứa các cục bột màu trắng, P và C đều khai là Heroine.

Quá trình điều tra, Lò Văn P và Lò Văn C khai nhận: Khoảng 12 giờ 00 phút ngày 29/7/2020, Lò Văn P đang ở nhà tại bản H, xã T, huyện U, tỉnh L thì có Lò Văn C, trú cùng bản đi bộ đến rủ đi mua ma túy về để sử dụng. Sau khi P đồng ý, C đi bộ về nhà mượn được chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE ANPHA màu đen bạc, sau đó quay sang nhà P, chở P cùng đi sang huyện ML để tìm mua ma túy.

Khi Lò Văn P và Lò Văn C đi sang đến địa phận xã HT, huyện ML, tỉnh Sơn La thì P và C thấy một ngôi nhà lán cạnh ao bên đường thuộc xã HT, huyện ML, tỉnh Sơn La có nhiều người ra vào trông giống người nghiện ma túy. P và C ghé vào hỏi thì gặp một người đàn ông dân tộc Thái là chủ nhà lán, cả hai đều không biết tên, tuổi của người đàn ông đó. Sau khi trao đổi, P và C cùng nhau góp mỗi người 300.000VNĐ (Ba trăm nghìn đồng) được 600.000VNĐ (Sáu trăm nghìn đồng), P đưa hết số tiền góp được cho người đàn ông đó, người đàn ông đó đưa cho P 01 (Một) gói nilon màu hồng, bên trong chứa 02 (Hai) gói nilon màu xanh, trong các gói nilon màu xanh có chứa các cục bột màu trắng, cả P, C và người đàn ông đó đều hiểu là Heroine. Sau khi ngồi uống nước được một lúc thì C chở P về, khi đi đến khu vực bản PC, xã CL, huyện ML, tỉnh Sơn La thì bị tổ công tác Công an xã CL, huyện ML, tỉnh Sơn La bắt quả tang.

Vật chứng thu giữ: 01 (Một) gói nilon màu hồng, bên trong chứa 02 (Hai) gói đều được gói bằng nilon màu xanh, trong các gói nilon màu xanh có chứa các cục bột màu trắng, C và P khai là Heroine; 01 xe moto nhãn hiệu HONDA WAVE ANPHA màu đen bạc, mang biển kiểm soát 25T1-146.32. Trong quá trình điều tra, C khai chiếc xe là tài sản riêng của anh Lò Văn Th, con trai ruột của C.

Ngày 30/7/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện ML phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân huyện ML và phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La tiến hành bóc mở niêm phong, tách bì và cân tịnh xác định khối lượng và lấy mẫu giám định vật chứng thu giữ khi bắt quả tang Lò Văn P và Lò Văn C. Kết quả:

- Cục màu trắng bên trong gói 01 (một) nilon màu xanh thứ nhất có khối lượng là 0,26 (Không phẩy hai mươi sáu) gam, lấy hết 0,26 (Không phẩy hai mươi sáu) gam làm mẫu giám định ký hiệu CP1.

- Cục màu trắng bên trong gói 01 (một) nilon màu xanh thứ hai có khối lượng là 0,26 (Không phẩy hai mươi sáu) gam, lấy hết 0,26 (Không phẩy hai mươi sáu) gam làm mẫu giám định ký hiệu CP2.

Còn lại 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu, 01 túi nilon màu hồng và 02 mảnh nilon màu xanh niêm phong lưu kho vật chứng theo quy định.

Ngày 30/7/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện ML ra quyết định trưng cầu giám định số: 96/QĐTCGĐ đối với mẫu vật ký hiệu CP1 và CP2. Tại Kết luận giám định số: 1258 ngày 03/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu CP1 và CP2 là ma túy, loại Heroine; khối lượng của mẫu gửi giám định CP1 là 0,26 gam và CP2 là 0,26 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,52 gam, loại Heroine. Hoàn lại chất bột màu trắng không sử dụng hết trong quá trình giám định là CP1 = 0,15 gam, CP2 = 0,21 gam, tổng khối lượng ma túy còn lại sau giám định là 0,36 gam”.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Lò Văn P và Lò Văn C không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định nêu trên.

Thực hiện điều tra đối với người đàn ông bán trái phép chất ma túy cho Lò Văn P và Lò Văn C, ngoài lời khai của các bị cáo, cơ quan chức năng không có cơ sở chứng minh, điều tra, xử lý theo vụ án.

Tại bản cáo trạng số: 94/CT-VKS-ML ngày 12/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện ML truy tố các bị cáo Lò Văn P và Lò Văn C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên toà, bị cáo C khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đó là do nghiện ma túy nên đã mua ma túy cất giữ, mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị bắt như cáo trạng đã nêu; bị cáo P khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đó là do nghiện ma túy nên khi C rủ đã đồng ý cùng C đi mua, mục đích mua ma tuý để sử dụng cho bản thân.

Tại đơn đề nghị và lời khai tại phiên tòa anh Lò Văn Th xác định: Chiếc xe mô tô bị thu và tạm giữ khi bắt quả tang Lò Văn C và Lò Văn P là tài sản hợp pháp của anh, việc C sử dụng xe để tàng trữ trái phép chất ma túy anh không biết, đề nghị xin nhận lại chiếc xe. Ngày 19/10/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện ML đã lập biên bản trả lại chiếc xe mô tô trên cho anh Th.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện ML sau khi phân tích nội dung vụ án, đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của các bị cáo, vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo Lò Văn P và Lò Văn C và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố các bị cáo Lò Văn P và Lò Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Lò Văn P từ 18 đến 24 tháng tù, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Lò Văn C từ 20 tháng đến 26 tháng tù, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu và tiêu huỷ: 0,36 gam Heroine còn lại sau giám định, 01 phong bì niêm phong ban đầu, 01 túi nilon màu hồng và 02 mảnh nilon màu xanh của Lò Văn P và Lò Văn C; Chấp nhận việc Cơ quan điều tra Công an huyện ML trả lại cho anh Lò Văn Th 01 chiếc xe mô tô HONDA WAVE ANPHA màu đen bạc, mang biển kiểm soát 25T1-146.32.

Các bị cáo tự bào chữa, tranh luận: Xin Hội đồng xét xử khoan hồng giảm nhẹ hình phạt đến mức thấp nhất cho bị cáo.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến gì về quyết định truy tố và cũng không tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát.

Các bị cáo trình bày lời nói sau cùng: Các bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện ML, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện ML, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và những người khác không có ý kiến, khiếu nại, tố cáo về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Về chứng cứ xác định hành vi phạm tội: Lời khai của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với nội dung kết luận điều tra, cáo trạng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và các chứng cứ, tài liệu đã được thu thập và phản ánh trong hồ sơ của vụ án, được thẩm tra, xác minh tại phiên toà, xác định: hồi 12 giờ 00 phút, ngày 29/7/2020, Lò Văn C, sinh năm 1974 đến nhà Lò Văn P, sinh năm 1982, đều trú tại bản Hỳ, xã T, huyện U, tỉnh L để rủ P đi mua ma túy về sử dụng, sau khi P đồng ý, C đã đi bộ về nhà mượn xe mô tô của con trai ruột là anh Lò Văn Th, nói là mượn xe đi sang ML mua cây giống về trồng, sau đó C đã trực tiếp đèo P đi sang ML. Sau khi mua được ma túy, thì P cầm ma túy ở tay trái, rồi C chở P về, khi đi đến khu vực bản Phiêng Cại, xã Chiềng Lao, huyện ML, tỉnh Sơn La thì bị tổ công tác Công an xã Chiềng Lao, huyện ML, tỉnh Sơn La phát hiện, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tại kết luận giám định số 1258 ngày 03/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu CP1 và CP2 là ma túy, loại Heroine; khối lượng của mẫu gửi giám định CP1 là 0,26 gam và CP2 là 0,26 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,52 gam, loại Heroine. Hoàn lại chất bột màu trắng không sử dụng hết trong quá trình giám định là CP1 = 0,15 gam, CP2 = 0,21 gam, tổng khối lượng ma túy còn lại sau giám định là 0,36 gam”; có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, tội phạm và hình phạt được quy định như sau: “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: c) Hêrôin, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

[3] Về tính chất mức độ của hành vi: Các bị cáo mặc dù đã được Đảng và Nhà nước tuyên truyền, vận động cấm sản xuất, mua bán, tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma tuý, các bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi của mình bị pháp luật cấm, thấy trước được tác hại của việc tàng trữ trái phép chất ma túy nhưng do nghiện ma túy, các bị cáo đã coi thường kỷ cương xã hội, pháp luật của Nhà nước, vẫn cố tình phạm tội. Lò Văn P và Lò Văn C đã cùng nhau cố ý trực tiếp thực hiện hành vi cất giấu, cất giữ trái phép 0,52 gam chất ma túy để sử dụng cho bản thân, tuy nhiên, giữa các bị cáo không có sự phân công, cấu kết chặt chẽ nên chưa được coi là có tổ chức, theo quy định tại các Điều 17, 58 của Bộ luật Hình sự thì các bị cáo là đồng phạm giản đơn, trong đó: Lò Văn C giữ vai trò chính (trực tiếp rủ, chủ động mượn xe máy chở P sang huyện ML tìm mua ma túy) và là người thực hành tích cực với Lò Văn P là người cùng C góp tiền và thực hiện việc mua ma túy, trực tiếp cất giữ ma túy trên tay đến khi bị bắt quả tang. Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, gây nguy hiểm cho xã hội, không những làm ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ, sự phát triển về thể chất của con người, suy giảm khả năng lao động do nghiện ma túy và kinh tế của gia đình bị cáo, mà còn ảnh hưởng xấu về trật tự an toàn xã hội, trật tự trị an ở địa P, là nguyên nhân gây ra những loại tội phạm, vi phạm pháp luật khác. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện ML truy các tố bị cáo theo tội danh và điều luật áp dụng là đúng người, đúng tội; tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát luận tội quy kết các bị cáo Chú phạm tội và đề nghị phạt tù đối với các bị cáo là có căn cứ và phù hợp.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân: Các bị cáo thành khẩn khai báo, khai nhận đầy đủ, đúng sự thật tất cả những gì liên quan đến hành vi phạm tội, ăn năn hối cải, mong muốn sửa chữa, cải tạo mình thành người có ích cho gia đình và xã hội. Do đó, xét cho các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Bị cáo Lò Văn C có bố ruột được tặng thưởng Huân chương kháng chiến chống Mỹ hạng Ba và chú ruột được tặng thưởng Huân chương chiến công giải phóng hạng Ba, do đó cần xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Nhân thân: Các bị cáo là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy (phiếu xét nghiệm dương tính (+) với ma túy), không có khả năng tự cải tạo. Do đó, cần thiết phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc, cách ly các bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian để đảm bảo giáo dục, cải tạo thành người tốt, có ích cho xã hội và cũng nhằm răn đe, phòng ngừa, giáo dục cho hành vi tương tự.

[6] Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự, các bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, tại biên bản xác minh tài sản và lời khai của các bị cáo tại phiên tòa xác định: Gia đình các bị cáo không có tài sản giá trị, bản thân các bị cáo là người nghiện ma túy, không có nghề nghiệp ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung - phạt tiền đối với các bị cáo.

[7] Về biện pháp ngăn chặn: Áp dụng Điều 329 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tiếp tục tạm giam bị cáo để bảo đảm việc thi hành án; các bị cáo bị tạm giữ, giam từ ngày 30/7/2020 được xem xét khấu trừ vào thời gian chấp hành hình phạt tù.

[8] Vật chứng của vụ án: Cơ quan chức năng đã lấy 0,52 gam ma túy làm mẫu giám định, kết quả: Xác định 0,52 gam ma túy thu giữ của Lò Văn P và Lò Văn C là Heroine, còn lại 0,36 gam Heroine hiện đang lưu kho vật chứng, ký hiệu là CP1 và CP2, là vật cấm tàng trữ, lưu hành, căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, cần tịch thu và tiêu hủy.

Đối với 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, 01 túi nilon màu hồng và 02 mảnh nilon màu xanh là vật dụng bị cáo sử dụng cất giữ trái phép chất ma túy, là vật chứng không có giá trị, do đó, căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, cần tịch thu và tiêu hủy.

Đối với chiếc xe mô tô 01 chiếc xe mô tô HONDA WAVE ANPHA màu đen bạc, mang biển kiểm soát 25T1-146.32 là tài sản riêng của anh Lò Văn Th. Việc Lò Văn C sử dụng chiếc xe mô tô làm P tiện phạm tội anh Th không biết. Căn cứ khoản 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện ML đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc xe mô tô trên cho anh Th là có căn cứ, cần chấp nhận.

[9] Về nguồn gốc ma túy, các bị cáo khai mua của một người đàn ông dân tộc Thái trú ở lán ven đường thuộc địa phận bản Hua Trai, xã Chiềng Lao, huyện ML, tỉnh Sơn La, các bị cáo không biết tên, tuổi, ngoài lời khai của các bị cáo, cơ quan điều tra không thu thập thêm được chứng cứ nào khác nên không có cơ sở chứng minh xử lý theo vụ án.

[10] Về án phí: Tài liệu trong hồ sơ xác định các bị cáo là người dân tộc thiểu số nhưng không sống ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn. Theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58; điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án đối với bị cáo Lò Văn P và bị cáo Lò Văn C.

Căn cứ khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Lò Văn C.

1. Tuyên bố: Bị cáo Lò Văn P và bị cáo Lò Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Xử phạt: Bị cáo Lò Văn P 20 (Hai mươi) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (ngày 30/7/2020); không áp dụng hình phạt Bổ sung – phạt tiền đối với bị cáo.

Xử phạt: Bị cáo Lò Văn C 21 (Hai mươi mốt) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (ngày 30/7/2020); không áp dụng hình phạt Bổ sung – phạt tiền đối với bị cáo.

3. Về vật chứng: Tịch thu và tiêu hủy: 0,36 (Không phẩy ba mươi sáu) gam Heroine còn lại sau giám định, ký hiệu là CP1 = 0,15 gam, CP2 = 0,21 gam; 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, 01 túi nilon màu hồng và 02 mảnh nilon màu xanh của Lò Văn P và Lò Văn C.

(Chi tiết theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 17/11/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện ML và Chi cục Thi hành án dân sự huyện ML, tỉnh Sơn La).

4. Về án phí: Các bị cáo Lò Văn C và Lò Văn P phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) đối với mỗi bị cáo.

5. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 26/11/2020).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

288
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 20/2020/HS-ST ngày 26/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:20/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;