Bản án 20/2020/HS-ST ngày 21/12/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SƠN DƯƠNG, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 20/2020/HS-ST NGÀY 21/12/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21/12/2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 33/2020/TLST-HS, ngày 30 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 21/2020/QĐXXST-HS, ngày 10 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyn Văn T, sinh ngày 23/8/1984 tại huyện S, tỉnh Tuyên Quang.

Nơi cư trú: thôn B, xã S, huyện S, tỉnh Tuyên Quang; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 1/12; dân tộc: Sán Dìu; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn T, sinh năm 1965 (đã chết) và bà: Nguyễn Thị H, sinh năm 1968; vợ: Dương Thị X, sinh năm 1984; con: có 03 con, con lớn sinh năm 2006, con nhỏ sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không; anh chị em ruột: có 03 người, bị cáo là con thứ nhất.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/10/2020 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang (có mặt).

- Người làm chứng:

1. Diệp Văn C, sinh năm 1992, trú tại: thôn A, xã S, huyện S, tỉnh Tuyên Quang.

2. Trần Ngọc G, sinh năm 1988, trú tại: thôn L, xã S, huyện S, tỉnh Tuyên Quang.

u vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn T, sinh năm 1984, trú tại thôn B, xã S, huyện S, tỉnh Tuyên Quang là người nghiện ma túy. Trong ngày 15/10/2020 tại nhà mình T đã 02 lần bán Heroine cụ thể:

Lần 1: Khong 11 giờ 30 phút ngày 15/10/2020 Trần Ngọc G, sinh năm 1988 (trú tại thôn L) và Diệp Văn C, sinh năm 1992 (trú tại thôn Ao X) xã S, huyện S, tỉnh Tuyên Quang đến nhà Nguyễn Văn T. Khi đến nhà T thì G hỏi “Anh còn ma túy không, bán cho em 100.000 đồng”, T nói “có, đưa tiền đây”, G đưa cho T số tiền 95.000 đồng, nợ lại 5.000 đồng. T vào buồng ngủ lấy 01 gói Heroine gói bằng giấy bạc màu trắng ra bán cho G, rồi đi vào buồng ngủ đóng cửa lại. Việc mua bán Heroine giữa T và G thì C biết. Sau khi mua được Heroine, G và C cùng chia nhau sử dụng hết bằng hình thức tiêm chích vào cơ thể tại nhà T. Việc G và C sử dụng ma túy tại nhà T, T không biết. Sau đó G và C đi về.

Lần 2: Khong 12 giờ 30 phút cùng ngày, G và C tiếp tục đến nhà T mua ma túy về sử dụng. Khi đến nhà T, G nói “Anh để cho em hai gói 100.000 đồng ma túy” T đồng ý, G đưa cho T 200.000 đồng (tiền trước đó C đưa G), T vào phòng ngủ lấy ra 02 gói Heroine được gói bằng giấy bạc màu trắng bán cho G, rồi đi vào phòng ngủ đóng cửa lại (Việc mua bán C biết). Sau khi mua được Heroine, G và C cùng nhau đi vào nhà vệ sinh của nhà T sử dụng hết 01 gói, sau đó đi về (T không biết G và C sử dụng heroine tại nhà mình). Trên đường về, đến thôn T, xã S, huyện Sơ thì G và C tiếp tục cùng nhau sử dụng hết gói Heroine còn lại. Khi vừa sử dụng xong thì bị Tổ công tác Công an huyện Sơn Dương phát hiện, yêu cầu về trụ sở Công an xã Sơn Nam làm việc và tiến hành xét nghiệm tìm chất ma túy đối với G và C, kết quả: Dương (+) tính (đều có chất ma túy trong cơ thể G, C). G và C đã khai nhận nguồn gốc chất ma túy vừa sử dụng là mua của Nguyễn Văn T, trú thôn B, xã S, huyện S, tỉnh Tuyên Quang.

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sơn Dương tiến hành khám xét khẩn cấp người, chỗ ở của Nguyễn Văn T, quá trình khám xét đã thu giữ được 03 gói nhỏ được gói bằng loại giấy bạc (02 gói màu trắng, 01 gói màu trắng đục) trong gian buồng ngủ nhà T, trong các gói đều có chứa chất bột vón cục màu trắng ngà, T khai là chất ma túy (Heroine), mục đích cất giấu nhằm để bán kiếm lời; tạm giữ tại túi quần đang mặc của T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo, cùng ngày Cơ quan Cảnh sát điều tra tiến hành xét nghiệm tìm chất ma túy đối với T, kết quả: Dương (+) tính (có chất ma túy trong cơ thể T).

Tại kết luận giám định số 784/GĐKTHS ngày 19/10/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tuyên Quang kết luận: Số chất bột vón cục màu trắng ngà thu giữ của Nguyễn Văn T là chất ma túy, loại Heroine, khối lượng 0,165g (không phẩy một sáu năm gam).

Về nguồn gốc số Heroine đã bán và bị thu giữ, Nguyễn Văn T khai: Ngày 14/10/2020 T đi xe ô tô khách đến xã Đ, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc tìm mua chất ma túy. Khi đến nơi, T gặp và mua của một người đàn ông không biết tên, tuổi, địa chỉ được 01 gói Heroine với giá 500.000 đồng, sau đó T đi về. Đến nhà, T lấy gói Heroine vừa mua được chia ra làm 08 gói nhỏ như nhau (đều được gói bằng loại giấy bạc), sau đó T sử dụng 01 gói, còn 07 gói T cất giấu ở buồng ngủ. Sáng ngày 15/10/2020, T tiếp tục lấy 01 gói ra sử dụng, còn lại 06 gói T cất giấu như cũ, mục đích để bán. T đã bán 03 gói cho G, còn 03 gói Cơ quan điều tra đã thu giữ.

Tại Cáo trạng số 135/CT-VKSSD, ngày 27/11/2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương đã truy tố Nguyễn Văn T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị:

- Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội: “ Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng: Điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn T từ 07 năm đến 08 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (15/10/2020).

Không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Áp dụng: Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong bên trong là Heroine.

Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo bên trong có lắp 02 thẻ sim là tài sản của bị cáo.

Truy thu sung vào Ngân sách Nhà nước số tiền 295.000 đồng là tiền thu lời bất chính do bị cáo bán ma túy mà có.

- Áp dụng: Các Điều 136, 331 và 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về nội dung vụ án:

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung bản cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố, bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật và đề nghị HĐXX xem xét cho bị cáo hưởng mức án nhẹ nhất.

Ngoài lời khai nhận của bị cáo, hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng toàn bộ những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy có đủ cơ sở để kết luận: Trong ngày 15/10/2020, tại nhà ở của mình thuộc thôn B, xã S, huyện S, tỉnh Tuyên Quang, Nguyễn Văn T đã 02 lần bán trái phép chất ma túy cho Trần Ngọc G, cụ thể:

Lần 1: Khoảng 11 giờ 30 phút, ngày 15/10/2020, Nguyễn Văn T đã bán trái phép cho Trần Ngọc G 01 gói Heroine với giá 100.000 đồng, G đã trả 95.000 đồng, còn nợ 5.000 đồng.

Lần 2: Khong 12 giờ 30 phút ngày 15/10/2020, Nguyễn Văn T đã bán trái phép cho Trần Ngọc G 02 gói Heroine với giá 200.000 đồng.

Hồi 18 giờ 05 phút ngày 15/10/2020, tại nhà ở của mình thuộc thôn B, xã S, huyện S, tỉnh Tuyên Quang, Nguyễn Văn T đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,165 gam Heroine, mục đích để bán.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương truy tố Nguyễn Văn T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” là đúng người, đúng tội. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, gây mất trật tự trị an tại địa phương và gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Do vậy, cần phải có mức án nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để răn đe, giáo dục, cải tạo bị cáo, đồng thời phòng tội phạm chung.

[3] Về nhân thân, tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự và đường lối xử lý đối với bị cáo:

Bị cáo có nhân thân tốt.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự khi quyết định hình phạt cần áp dụng cho bị cáo để có mức án phù hợp.

Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã được phân tích ở trên, cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Quá trình điều tra xác định bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản riêng có giá trị nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự.

[4] Về vật chứng:

Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra thu giữ: 01 phong bì niêm phong bên trong là Heroine. Đây là vật chứng của vụ án thuộc danh mục Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

Ngoài ra cơ quan điều tra còn thu giữ: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo màu xanh ngọc bích, bên trong có chứa 02 thẻ sim của Nguyễn Văn T. Xét thấy đây là tài sản của bị cáo, sử dụng làm phương tiện liên lạc hàng ngày, cần tuyên trả lại cho bị cáo nhưng giữ lại để đảm bảo công tác thi hành án.

Đối với số tiền 295.000 đồng bị cáo bán ma túy cho Trần Ngọc G, bị cáo đã chi tiêu cá nhân hết, cần truy thu sung vào Ngân sách Nhà nước.

[5] Các vấn đề khác:

Đối với người đàn ông bán Heroine cho Nguyễn Văn T tại xã Đ, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc, quá trình điều tra bị cáo không xác định được họ tên, tuổi, địa chỉ cụ thể, nên không có căn cứ điều tra, xử lý.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Nguyễn Văn T, Trần Ngọc G, Diệp Văn C, Công an huyện Sơn Dương đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 392, 393, 394 ngày 09/11/2020, hình thức phạt tiền, mức phạt 750.000 đồng.

Do đó, HĐXX không xem xét.

[6] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sơn Dương, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[7] Về án phí và quyền kháng cáo bản án:

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điều 47 Bộ luật hình sự; Các Điều 106, 136, 331 và 333 Bộ luật tố tụng hình sự;

Căn cứ: điểm b khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự;

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án;

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

1. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 07 (bảy) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (15/10/2020).

2. Về vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì đã niêm phong bên trong có chứa heroin.

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn T: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo màu xanh ngọc bích, bên trong có chứa 02 thẻ sim, nhưng tạm giữ lại để đảm bảo công tác thi hành án.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao, nhận vật chứng ngày 01/12/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Sơn Dương và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sơn Dương) - Truy thu của bị cáo Nguyễn Văn T sung vào Ngân sách Nhà nước số tiền 295.000đ (Hai trăm chín mươi lăm nghìn đồng) là số tiền do bị cáo phạm tội mà có.

Khoản tiền truy thu kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật nếu bị cáo chậm thi hành, hàng tháng bị cáo còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.

3. Về án phí và quyền kháng cáo:

Bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 20/2020/HS-ST ngày 21/12/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:20/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sơn Dương - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;