Bản án 20/2020/HS-ST ngày 21/05/2020 về tội vận chuyển trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 20/2020/HS-ST NGÀY 21/05/2020 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 21 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 12/2020/TLST-HS ngày 13/3/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 17/2020/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 5 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Ma A C (Tên gọi khác: Không) - Sinh ngày 10 tháng 03 năm 1994, tại huyện S, tỉnh Lào Cai.

Nơi cư trú: thôn X 1, xã Đ, huyện P, tỉnh Điện Biên. Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ Văn hóa: 9/12; Dân tộc: Mông; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam Con ông Ma A S và bà Sùng Thị M; Có vợ là Giàng Thị V và có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2012, con nhỏ nhất sinh năm 2017. Tiền sự: Không; Tiền án: Không; Nhân thân: Tốt.

Bị bắt tạm giữ từ ngày 19/11/2019 và bị tạm giam từ ngày 28/11/2019. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Lào Cai - Có mặt.

2. Họ và tên: Giàng A Ch (Tên gọi khác: Không) - Sinh ngày 01 tháng 01 năm 1999 tại Huyện P, tỉnh Điện Biên.

Nơi cư trú: thôn X 1, xã Đ, huyện P, tỉnh Điện Biên; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hóa: 5/12; Dân tộc: Mông; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam;

Con ông Giàng A V1 và bà Thào Thị D. Có vợ là Lý Thị H và có 01 con sinh năm 2018; Tiền sự: Không; Tiền án: Không; Nhân thân: Tốt;

Bị bắt tạm giữ từ ngày 19/11/2019 và bị tạm giam ngày 28/11/2019. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Lào Cai - Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Ma A C: Ông Nguyễn Xuân T, Trợ giúp viên pháp lý thuộc trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Lào Cai - Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Giàng A Ch: Ông Phạm Ngọc G, Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý cho trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Lào Cai - Có mặt

- Người chứng kiến:

1/ Bà Trần Thị H1. Địa chỉ: Thôn Tr, xã S1, huyện B, tỉnh Lào Cai – Vắng mặt.

2/ Ông Trần Bình Ch1. Địa chỉ: Thôn Tr, xã S1, huyện B, tỉnh Lào Cai – Vắng mặt.

- Người phiên dịch: Bà Sùng Thị Q, nơi cư trú: Tổ 13, phường M, thành phố L, tỉnh Lào Cai - Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 20 giờ 30 phút ngày 19/11/2019, tổ công tác Công an huyện B làm nhiệm vụ tại khu vực xã S1, huyện B, tỉnh Lào Cai phát hiện Ma A C, đang điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 24V1 – 021.91 chở phía sau là Giàng A Ch, cùng trú tại bản X 1, xã Đ, huyện P, tỉnh Điện Biên, có biểu hiện nghi vấn liên quan đến tội phạm ma túy. Tổ công tác yêu cầu dừng xe để kiểm tra. Quá trình kiểm tra Ma A C và Giàng A Ch khai nhận đang vận chuyển trái phép chất ma túy để lấy tiền công. Tang vật thu giữ 01 chiếc ba lô bằng vải bên trong có 04 bánh hình chữ nhật có kích thước khoảng 2,5 x 10,5 x 15,5 cm bên ngoài bọc nhiều lớp nilon và giấy chống ẩm, bên trong là chất bột khô màu trắng; 01 gói bên ngoài bọc nhiều lớp nilon và giấy chống ẩm bên trong có chứa 30 gói (túi) nhỏ, kiểm tra xác xuất 01 gói phát hiện bên trong có chứa nhiều viên nén màu hồng và 02 viên nén màu xanh; 01 gói bên trong có 01 túi nilon màu vàng, trong cùng chứa các hạt tinh thể màu trắng (C và Ch khai là ma túy Heroine và ma túy tổng hợp). Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ và niêm phong vật chứng theo quy định.

Quá trình điều tra các bị cáo khai nhận nhƣ sau:

Thông qua mạng xã hội Facebook, Ma A C quen một người nam giới tên là C1 và được C1 giới thiệu đi làm thuê trồng chuối bên Trung Quốc, C đồng ý và đã cho C1 số điện thoại của mình. Sau đó có một người đàn ông Trung Quốc (không biết tên, địa chỉ) gọi điện thoại cho C bảo đi sang tỉnh Lào Cai anh ta sẽ đón để đưa sang Trung Quốc làm thuê. Ma A C rủ Giàng A Ch (em họ) sang bên Trung Quốc làm thuê trồng chuối, Ch đồng ý. Ngày 17/11/2019, C và Ch đi xe ô tô khách từ Điện Biên đến Lào Cai và đã thuê phòng nghỉ tại thành phố L. Sau đó C gọi điện cho người Trung Quốc hỏi công việc cụ thể thì người này hẹn hôm sau vào khu vực thôn N, xã B1 gặp nhau. Sáng ngày 19/11/2019, Ma A C và Giàng A Ch thuê xe ôm chở vào thôn N, xã B1, huyện Kh. Khi gặp nhau, người Trung Quốc đặt vấn đề thuê C vận chuyển ma túy từ thôn N, xã B1, huyện Kh xuống huyện B, Lào Cai giao cho một người đàn ông tên N với tiền công là 100.000.000 (một trăm triệu) đồng, khi nào C vận chuyển ma túy đến trung tâm huyện B thì N1 sẽ chủ động liên lạc để lấy ma túy và trả tiền công, C đồng ý. Ngay lúc đó C nói với Ch về việc vận chuyển ma túy cho người Trung Quốc và tiền công được sẽ chia đôi, Ch đồng ý. C và Ch nói không có xe mô tô để đi, người Trung Quốc đã hướng dẫn cho C đi ra khu vực cầu chui gần cửa khẩu quốc tế Lào Cai, gặp một người nam giới tên là N1 để lấy xe mô tô. Sau đó C và Ch thuê xe ôm đến khu vực cầu chui gần cửa khẩu quốc tế Lào Cai gặp một người đàn ông (không quen biết) nhận một chiếc xe mô tô nhãn hiệu Wave, màu xanh biển kiểm soát 24V1 – 021.91. Khoảng 14 giờ chiều cùng ngày, C và Ch quay lại thôn N, xã B1 gặp người đàn ông Trung Quốc, người này giao cho C 01 chiếc ba lô màu xanh bên trong có chứa ma túy. C trực tiếp mở ba lô kiểm tra và cho Ch cùng xem, thấy bên trong có 04 bánh Heroine, 02 gói ma túy Methamphetamine. Sau khi nhận ma túy, C điều khiển xe mô tô, Ch ngồi phía xe sau cầm ba lô chứa ma túy vận chuyển trái phép đến thôn Tr, xã S1, huyện B, tỉnh Lào Cai để giao cho N1. Khi C và Ch chưa kịp giao số ma túy trên thì bị Công an huyện B, tỉnh Lào Cai bắt quả tang, thu giữ toàn bộ tang vật .

Kết luận giám định số 03/GĐMT ngày 26/11/2019, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai kết luận: Gói 01 các hạt tinh thể rắn màu trắng có khối lượng 998,54 gam và gói 02 có khối lượng 563,97 gam, tổng khối lượng là 1.562,51 gam là chất ma túy Methamphetamine; 04 bánh hình hộp chữ nhật có khối lượng 1.401,47 gam gửi đến giám định là chất ma túy Heroine, thuộc Danh mục các chất ma túy do Chính phủ quy định.

Bản cáo trạng số 12/CT-VKS-P1, ngày 11 tháng 3 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lào Cai đã truy tố các bị cáo Ma A C, Giàng A Ch về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 4 Điều 250 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, các bị cáo Ma A C, Giàng A Ch khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố phát biểu quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Ma A C, Giàng A Ch phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 250; điểm s khoản 1, Điều 51, Điều 17, Điều 58 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Ma A C mức án tù Tử hình. Ngoài hình phạt chính, áp dụng hình phạt bổ sung, xử phạt bị cáo 5.000.000 đồng, sung ngân sách nhà nước.

Áp dụng điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 250; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Giàng A Ch mức án tù chung thân. Ngoài hình phạt chính áp dụng hình phạt bổ sung, xử phạt bị cáo 5.000.000 đồng, sung ngân sách nhà nước.

Xử lý vật chứng, án phí theo quy định của pháp luật.

Ý kiến của người bào chữa cho bị cáo Ma A C, ông Nguyễn Xuân T: Nhất trí với bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát về tội danh và điều luật áp dụng đối với bị cáo Ma A C. Về hình phạt, đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo Ma A C mức án tù chung thân. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Ý kiến của người bào chữa cho bị cáo Giàng A Ch, ông Phạm Ngọc G: Nhất trí với bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát về tội danh và điều luật áp dụng đối với bị cáo. Về hình phạt, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét tuyên phạt bị cáo Giàng A Ch mức án 20 năm tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, người bào chữa cho bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Tại phiên tòa hôm nay các bị cáo đều khai nhận, ngày 19 tháng 11 năm 2019, Ma A C rủ Giàng A Ch cùng nhau vận chuyển cho một người đang ông Trung Quốc 1.401,47 gam Heroine và 1.562,51 gam Methamphetamine từ thôn N, xã B1, huyện Kh đến huyện B, Lào Cai để lấy tiền công. C và Ch chưa kịp giao số ma túy trên thì bị Công an huyện B, tỉnh Lào Cai phát hiện bắt quả tang thu giữ toàn bộ tang vật.

Lời khai nhận tội của bị cáo C và Ch tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai nhận tội của các bị cáo trong quá trình điều tra, Biên bản phạm tội quả tang, Bản kết luận giám định và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, có đủ cơ sở kết luận: Các bị cáo Ma A C, Giàng A Ch đã có hành vi vận chuyển trái phép 1.401,47 gam Heroine và 1.562,51 gam Methamphetamine. Vì vậy Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lào Cai truy tố các bị cáo về tội “Vận chuyển trái phép chất ma tuý” với tình tiết định khung hình phạt quy định tại điểm h khoản 4 Điều 250 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Các bị cáo Ma A C, Giàng A Ch đều là người có năng lực trách nhiệm hình sự. Hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm vào chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về ma tuý được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an ở địa phương, làm gia tăng các tệ nạn xã hội khác, vì vậy phải xử lý các bị cáo thật nghiêm khắc trước pháp luật để giáo dục răn đe và phòng ngừa chung.

Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, trong đó bị cáo Ma A C là người trực tiếp thỏa thuận, giao dịch nhận vận chuyển 1.401,47 gam Heroine, 1.562,51 gam Methamphetamine và cùng Ch vận chuyển đến huyện B, Lào Cai nên phải giữ vai trò là người thực hành chính trong vụ án. Bị cáo Giàng A Ch, sau khi được Ma A C rủ cùng đi vận chuyển trái phép chất ma túy để lấy tiền công, Ch đã thực hiện hành vi rất tích cực, trực tiếp vận chuyển số ma túy trên đến huyện B, Lào Cai nên giữ vai trò là người thực hành tích cực trong vụ án. Xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo Ma A C là đặc biệt nghiêm trọng, không còn khả năng giáo dục cải tạo. Vì vậy cần cách ly vĩnh viễn ra khỏi xã hội mới có tác dụng răn đe, phòng ngừa tội phạm về ma túy.

[3] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo Ma A C, Giàng A Ch đều không có tiền án, tiền sự, trước khi phạm tội đều có nhân thân tốt. Không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Đều có tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Đây là những tình tiết để hội đồng xét xử xem xét quyết định hình phạt.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với cáo Ma A C, Giàng A Ch mỗi người là 5.000.000 (năm triệu) đồng.

Ý kiến của người bào chữa cho bị cáo Ma A C đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức án tù chung thân, ngoài ra không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo, là không có căn cứ, không phù hợp với mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo, nên không được chấp nhận.

Ý kiến của người bào chữa cho bị cáo Giàng A Ch đề nghị Hội đồng xét xử xem xét tuyên phạt bị cáo mức án 20 năm tù, ngoài ra không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo là không có căn cứ, không phù hợp với mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo, nên không được chấp nhận.

Về nguồn gốc 1.401,47 gam Heroine và 1.562,51 gam Methamphetamine bị cáo Ma A C và Giàng A Ch khai nhận là của người nam giới Trung Quốc thuê vận chuyển trái phép đến huyện B, tỉnh Lào Cai để lấy tiền công. Do chỉ có lời khai của các bị cáo, không có các tài liệu, chứng cứ nào khác để chứng minh, nên không làm rõ được nguồn gốc ma túy và người đàn ông Trung Quốc có liên quan đến hành vi phạm tội của các bị cáo. Do đó hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về vật chứng:

- 01 (một) hộp niêm phong vật chứng được dán kín bằng giấy trắng, tại các mép dán có chữ ký của những người tham gia, người bị bắt và hình dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai. Trên một mặt niêm phong ghi: “Vật chứng còn lại sau trích mẫu giám định thu trong vụ: Ma A C và Giàng A Ch có hành vi phạm tội về ma túy. Phát hiện, thu giữ ngày 19/11/2019 tại thôn Tr, xã S1, huyện B, tỉnh Lào Cai”. Hộp niêm phong này chứa 1.362,74 gam Heroine, 1.518,27 gam Methamphetamine. Đây là vật chứng của vụ án và là vật nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 (một) hộp niêm phong vật chứng được dán kín bằng giấy trắng, tại các mép dán có chữ ký của những người tham gia và hình dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai. Trên một mặt niêm phong ghi: “Vật chứng sau giám định dấu vết đường vân trong vụ: Ma A C và Giàng A Ch có hành vi phạm tội về ma túy. Phát hiện, thu giữ ngày 19/11/2019 tại thôn Tr, xã S1, huyện B , tỉnh Lào Cai”. Bên trong đựng các vỏ túi nilon, các mảnh băng dính nilon, giấy nến. Là vật nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 (một) ba lô bằng vải; 01 (một) túi đeo giả da màu đen. Là vật không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 (một) chiếc xe mô tô màu xanh nhãn hiệu Wave Alpha, được lắp BKS: 24V1-021.91; xe bị vỡ yếm bên trái, số máy: VTTJN1P52FMHA001877, số khung: VTTDCHO-14TT*001877 (số khung, số máy không giống trên đăng ký xe). Cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

- 01 (một) đăng ký xe mô tô biển kiểm soát 24V1-021.91, số 002446 mang tên Hoàng Văn Tư. Cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Masstel mầu đỏ đã qua sử dụng có số IMEI1: 352121084756640, số IMEI2: 352121084756657 (thu giữ của Ma A C); 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen đã qua sử dụng, số IMEI1: 868125041854577, số IMEI2: 868125041854569 (thu giữ của Giàng A Ch). Đây là tài sản các bị cáo dùng vào việc phạm tội, cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG đã qua sử dụng có số IMEI1: 352987103075042/01, số IMEI2: 352988103075040/01 (thu giữ của Ma A C) cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

- 01 (một) giấy phép lái xe số 110171001172 mang tên Ma A C, 01 (một) đăng ký xe mô tô số 060792 mang tên Ma A C; 01(một) ví giả da màu đen đã cũ. Xét thấy cần trả lại cho bị cáo Ma A C.

- 01(một) ví giả da đã cũ; 01 (một) chứng minh thư nhân số 040906289 mang tên Giàng A Ch; 01 (một) giấy phép lái xe số 110189002682 mang tên Giàng A Ch; 01 đăng ký xe mô tô số 061732 mang tên Giàng A Ch. Xét thấy cần trả lại cho bị cáo Giàng A Ch.

- Số tiền 7.114.000 (bảy triệu một trăm mười bốn nghìn) đồng, trong đó thu giữ của bị cáo Ch là: 3.420.000 (ba triệu bốn trăm hai mươi nghìn) đồng, thu giữ của bị cáo C là: 3.694.000 (ba triệu sáu trăm chín mươi tư nghìn đồng) hiện được gửi tại tài khoản tạm giữ số 3949.0.9051074 tại Kho bạc nhà nước tỉnh Lào Cai. Cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[5] Về án phí: Các bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Ma A C, Giàng A Ch phạm tội “ Vận chuyển trái phép chất ma tuý”.

Căn cứ vào điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 250; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17, Điều 58 của Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Ma A C mức án tử hình. Tiếp tục giam bị cáo để đảm bảo thi hành án. Ngoài ra, xử phạt bị cáo Ma A C 5.000.000 (năm triệu) đồng nộp vào ngân sách nhà nước.

Căn cứ vào điểm h khoản 4, khoản 5 Điều 250; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17, Điều 58 của Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Giàng A Ch mức án tù chung thân. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 19/11/2019. Ngoài ra xử phạt bị cáo Giàng A Ch 5.000.000 (năm triệu) đồng nộp vào ngân sách nhà nước.

Về vật chứng: Căn cứ vào khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

* Tịch thu tiêu hủy:

- 01 (một) hộp niêm phong vật chứng được dán kín bằng giấy trắng, tại các mép dán có chữ ký của những người tham gia, người bị bắt và hình dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai. Trên một mặt niêm phong ghi: “Vật chứng còn lại sau trích mẫu giám định thu trong vụ: Ma A C và Giàng A Ch có hành vi phạm tội về ma túy. Phát hiện, thu giữ ngày 19/11/2019 tại thôn Tr, xã S1, huyện B , tỉnh Lào Cai”. Hộp niêm phong này chứa 1.362,74 gam Heroin, 1.518,27 gam Methamphetamine.

- 01 (một) hộp niêm phong vật chứng dán kín bằng giấy trắng, tại các mép dán có chữ ký của những người tham gia và hình dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai. Trên một mặt niêm phong ghi: “Vật chứng sau giám định dấu vết đường vân trong vụ: Ma A C và Giàng A Ch có hành vi phạm tội về ma túy. Phát hiện, thu giữ ngày 19 tháng 11 năm 2019 tại thôn Tr, xã S1, huyện B , tỉnh Lào Cai” Bên trong đựng các vỏ túi nilon, các mảnh băng dính nilon, giấy nến.

- 01 (một) ba lô bằng vải; 01 (một) túi đeo giả da màu đen;

* Tạm giữ để đảm bảo thi hành án:

- Số tiền 7.114.000 (bảy triệu một trăm mười bốn nghìn) đồng, trong đó thu giữ của bị cáo Giàng A Ch là: 3.420.000 (ba triệu bốn trăm hai mươi nghìn) đồng, thu giữ của bị cáo Ma A C là: 3.694.000 (ba triệu sáu trăm chín mươi tư nghìn đồng) hiện được gửi tại tài khoản tạm giữ số 3949.0.9051074 tại Kho bạc nhà nước tỉnh Lào Cai.

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG đã qua sử dụng có số IMEI1: 352987103075042/01, số IMEI2: 352988103075040/01.

* Tịch thu sung quỹ nhà nước:

- 01 (một) chiếc xe mô tô màu xanh nhãn hiệu Wave Alpha, BKS: 24V1- 021.91; xe bị vỡ yếm bên trái, số máy: VTTJN1P52FMHA001877, số khung: VTTDCHO-14TT*001877.

- 01 (một) đăng ký xe mô tô biển kiểm soát 24V1-021.91, số 002446 mang tên Hoàng Văn Tư.

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Masstel mầu đỏ đã qua sử dụng có số IMEI1: 352121084756640, số IMEI2: 352121084756657.

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu đen đã qua sử dụng, số IMEI1: 868125041854577, số IMEI2: 868125041854569 * Trả lại cho bị cáo Ma A C: 01 (một) giấy phép lái xe số 110171001172 mang tên Ma A C, 01 (một) đăng ký xe mô tô số 060792 mang tên Ma A C; 01 (một) ví giả da màu đen đã cũ.

* Trả lại cho bị cáo Giàng A Ch: 01(một) ví giả da đã cũ; 01 (một) chứng minh thư nhân số 040906289 mang tên Giàng A Ch; 01 (một) giấy phép lái xe số 110189002682 mang tên Giàng A Ch; 01 (một) đăng ký xe mô tô số 061732 mang tên Giàng A Ch.

(Các vật chứng thể hiện cụ thể theo Biên bản giao, nhận vật chứng số 34 ngày 11/3/2020 tại Cục thi hành án Dân sự tỉnh Lào Cai; Số tiền được gửi tại tài khoản số 3949.0.9051074 tại Kho bạc nhà nước tỉnh Lào Cai theo giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 02/01/2020).

Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễm, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc các bị cáo Ma A C và Giàng A Ch mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, bị cáo Ma A C được quyền gửi đơn xin ân giảm lên Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự .

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

216
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 20/2020/HS-ST ngày 21/05/2020 về tội vận chuyển trái phép chất ma tuý

Số hiệu:20/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Lào Cai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;