TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN CHÂU, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 20/2020/HSST NGÀY 07/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 07 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân huyện Thuận Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 22/2020/TLST-HS ngày 10/12/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 20/2020/QĐXXST-HS ngày 25/12/2020 đối với bị cáo:
Phạm Văn S, tên gọi khác: Không; sinh năm 1968 tại huyện T, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Tiểu khu 6, thị trấn T, huyện T, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 10/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phạm Văn M (đã chết) và bà Phạm Thị C (đã chết); có vợ là Bùi Thị T, sinh năm 1969 và có 02 con, con lớn sinh năm 1998, con nhỏ sinh năm 2008; Không tiền án, tiền sự; nhân thân: Tại Bản án số 442/2001/HS-ST ngày 29/6/2001 bị Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội xử phạt 16 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy (đã xóa án tích); bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/9/2020 đến nay, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 08 giờ 45 phút ngày 13/9/2020, Tổ công tác Công an thị trấn T, huyện T, tỉnh Sơn La làm nhiệm vụ tại khu vực tiểu khu 1, thị trấn T, huyện T, phát hiện Phạm Văn S có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.
Tang vật thu giữ gồm: 01 (một) gói giấy, một mặt màu trắng, một mặt màu xanh, bên trong có chứa bột cục màu trắng nghi là Heroine (theo Phạm Văn S khai là Heroine).
Hồi 13 giờ 00 phút ngày 13/9/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thuận Châu đã tiến hành bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng và lấy mẫu giám định, kết quả: số bột cục màu trắng trong 01 (một) gói giấy, một mặt màu trắng, một mặt màu xanh có khối lượng 0,17 gam. Trích toàn bộ 0,17 gam ký hiệu S1 gửi giám định.
Tại Kết luận giám định số: 1473 ngày 15/9/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu gửi giám định ký hiệu S1 là ma túy; loại Heroine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,17 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,17 gam, loại Heroine.
Quá trình điều tra Phạm Văn S đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như sau: Khoảng 08 giờ ngày 13/9/2020, Phạm Văn S đi bộ từ nhà ở tiểu khu 6, thị trấn T, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La lên khu vực tiểu khu 1, thị trấn T, huyện T, mục đích tìm mua ma túy để sử dụng. Khi đến tiểu khu 1, thị trấn T, huyện T, S gặp và mua được của một người đàn ông dân tộc Thái (S không biết tên, địa chỉ) một gói ma túy gói bằng giấy, một mặt màu trắng, một mặt màu xanh với số tiền 100.000 đồng (một trăm nghìn đồng). Sau khi mua được Heroine, S cất vào túi quần đằng trước bên trái đang mặc rồi đi tìm nơi sử dụng ma túy. Khi S đi đến khu vực cổng trường Chu V, tiểu khu 1, huyện Tâu thì bị tổ công tác Công an thị trấn T, huyện T kiểm tra ma túy, phát hiện, bắt quả tang S cất giấu trái phép chất ma túy trong người. Tổ công tác đã tạm giữ tang vật, dẫn giải Phạm Văn S về Ủy ban nhân dân thị trấn T lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang.
Do có hành vi nêu trên, tại Cáo trạng số 01/CT- VKS ngày 10 tháng 12 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu đã truy tố bị cáo Phạm Văn S về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo Phạm Văn S đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân huyện T đã truy tố và thừa nhận bản cáo trạng truy tố bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy là đúng người, đúng tội.
Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân huyện Thuận Châu giữ quyền công tố tại phiên toà trình bày lời luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố bị cáo Phạm Văn S phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Phạm Văn S từ 24 đến 30 tháng tù.
Miễn áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.
Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ Luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tuyên tịch thu tiêu hủy: 0,11 gam Heroine; 01 mảnh giấy một mặt màu trắng, một mặt màu xanh; 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, 01 vỏ phong bì cũ gửi giám định đã bóc mở.
Buộc bị cáo Phạm Văn S phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Văn S thừa nhận hành vi phạm tội và không có ý kiến tranh luận gì với vị đại diện Viện kiểm sát, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, thực hiện đúng thủ tục tố tụng. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
[2] Ngày 13/9/2020 bị cáo Phạm Văn S đã có hành vi cất giữ trái phép 0,17 gam chất ma túy, loại chất Heroine trong người với mục đích để sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang tại khu vực tiểu khu 1, thị trấn T, huyện T, tỉnh Sơn La.
Tại phiên tòa bị cáo giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra, không bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án, bị cáo hoàn toàn nhất trí với hành vi phạm tội như quyết định truy tố của Viện kiểm sát.
Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với kết quả điều tra, phù hợp với: Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 08 giờ 45 phút ngày 13/9/2020 tại Trụ sở Ủy ban nhân dân thị trấn T, huyện T, tỉnh Sơn La; Biên bản niêm phong vật chứng; Biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng, lấy mẫu gửi giám định và niêm phong lại vật chứng; Biên bản mở niêm phong và giao nhận đối tượng giám định; Kết luận giám định số 1473 ngày 15/9/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La; lời khai của người chứng kiến.
Từ các căn cứ trên có đủ cơ sở kết luận bị cáo Phạm Văn S phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, có khung hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự an ninh xã hội tại địa phương. Do đó cần có mức hình phạt nghiêm khắc nhằm răn đe đối với bị cáo, đảm bảo biện pháp giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Tuy nhiên khi áp dụng hình phạt cần xem xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo.
Về nhân thân: Bị cáo không có tiền án, tiền sự.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.
[4] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Bị cáo không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[5] Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ: Bị cáo Phạm Văn S khai mua của người đàn ông dân tộc Thái tại khu vực bản L, xã T, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La vào ngày 13/9/2020. Quá trình điều tra xác định S không biết họ tên, tuổi, địa chỉ của người đã bán ma túy cho S, do đó Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Thuận Châu không có đủ căn cứ để điều tra, xử lý.
[6] Vật chứng vụ án:
Đối với 0,11 gam Heroine còn lại sau khi lấy mẫu gửi giám định là chất ma túy, thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành, cần tịch thu tiêu hủy cùng 01 mảnh giấy một mặt màu trắng; một mặt màu xanh; 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu, 01 vỏ phong bì cũ gửi giám định đã bóc mở là công cụ phương tiện bị cáo dùng vào việc phạm tội và không còn giá trị sử dụng theo quy định tại điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
[7] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh và hình phạt:
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Tuyên bố bị cáo Phạm Văn S phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt bị cáo Phạm Văn S 17 (mười bảy) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 13/9/2020).
Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.
2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ Luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
Tịch thu tiêu hủy: một phong bì niêm phong, mặt trước ghi: Vật chứng nhập kho vụ Phạm Văn S - Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 13/9/2020, mặt sau phong bì dán giấy niêm phong của Công an tỉnh Sơn La số: 023821 đè lên các mép dán của phong bì, trên giấy niêm phong có đầy đủ chữ ký, họ tên của các thành phần tham gia niêm phong, người bị bắt và 02 hình dấu đỏ của cơ quan CSĐT Công an huyện T: Bên trong là: 01 mảnh giấy một mặt màu trắng một mặt màu xanh + 01 vỏ phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu; một phong bì niêm phong, mặt trước ghi: Vật chứng vụ Phạm Văn S - Tàng trữ trái phép chất ma túy, xảy ra ngày 13/9/2020, gồm có: vỏ phong bì cũ gửi giám định + mẫu gửi giám định còn lại ký hiệu S1 không sử dụng đến trong quá trình giám định, có khối lượng S1 = 0,11 gam.
Mặt sau dán giấy niêm phong của Công an tỉnh Sơn La số: 051141 có đầy đủ chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 10/12/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện Thuận Châu và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuận Châu).
3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
Buộc bị cáo Phạm Văn S phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo Phạm Văn S được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Bản án 20/2020/HSST ngày 07/01/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 20/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thuận Châu - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 07/01/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về