Bản án 20/2020/DS-ST ngày 18/08/2020 về tranh chấp hợp đồng góp hụi

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DƯƠNG MINH CHÂU, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 20/2020/DS-ST NGÀY 18/08/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG GÓP HỤI 

Ngày 18 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 103/2020/TLST-DS ngày 09 tháng 3 năm 2020, về việc “Tranh chấp hợp đồng góp hụi” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 11/2020/QĐXX-ST ngày 22 tháng 7 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1958; địa chỉ: Ấp N, xã L, Huyện D, tỉnh Tây Ninh. (có mặt)

2. Bị đơn: Anh Phan Đức L (B), sinh năm 1971; (có mặt) Chị Huỳnh Thị Quế M, sinh năm 1973; (có mặt) Cùng địa chỉ: Số nhà 1231A, ấp A, xã B, Huyện D, tỉnh Tây Ninh.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Huỳnh Thị Ngọc Y (T), sinh năm 1977; địa chỉ: Số nhà B3/9 ấp T, xã H, thị xã X, tỉnh Tây Ninh. (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 02-3-2020 và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn – bà Nguyễn Thị Thu H trình bày:

Bà và anh Phan Đức L, chị Huỳnh Thị Quế M có quen biết nhau. Vợ chồng anh L tham gia góp hụi do bà làm chủ thảo nhiều lần, nhưng các lần trước vợ chồng anh L thực hiện nghĩa vụ góp hụi rất đúng, không vi phạm. Vợ chồng anh L tiếp tục tham gia các dây hụi sau:

- Dây hụi 1: Ngày 09-9-2017 (âm lịch), hụi 10.000.000 đồng/tháng, gồm 25 phần, chị M anh L tham gia 01 phần (bà ghi tên trong danh sách hụi là Bé M), hốt hụi kỳ thứ 1 với số tiền 158.200.000 đồng, đã trừ tiền hoa hồng 5.000.000 đồng, sau khi hốt hụi, vợ chồng anh L đóng lại hụi chết được 14 kỳ, đến tháng 12-2018 (âm lịch) thì ngưng, còn nợ lại 10 kỳ hụi chết tương đương số tiền 100.000.000 đồng.

- Dây hụi 2: Ngày 21-01-2018 (âm lịch), hụi 10.000.000 đồng/tháng, gồm 25 phần, chị M anh L tham gia 01 phần (bà ghi tên trong danh sách hụi là Bé M), hốt hụi kỳ thứ 1 với số tiền 158.200.000 đồng, đã trừ tiền hoa hồng 5.000.000 đồng, sau khi hốt hụi, vợ chồng anh L đóng lại hụi chết được 10 kỳ, đến tháng 12-2018 (âm lịch) thì ngưng, còn nợ lại 14 kỳ hụi chết tương đương số tiền 140.000.000 đồng.

- Dây hụi 3: Ngày 15-6-2018 (âm lịch), hụi 10.000.000 đồng/tháng, gồm 25 phần, chị M anh L tham gia 01 phần (bà ghi tên trong danh sách hụi là Bé M), hốt hụi kỳ thứ 1 với số tiền 157.000.000 đồng, đã trừ tiền hoa hồng 5.000.000 đồng, sau khi hốt hụi, vợ chồng anh L đóng lại hụi chết được 05 kỳ, đến tháng 12-2018 (âm lịch) thì ngưng, còn nợ lại 19 kỳ hụi chết tương đương số tiền 190.000.000 đồng.

Các lần bà đăng hụi, vợ chồng anh L chị M đều có ký nhận hụi. Tổng cộng anh L, chị M nợ bà 430.000.000 đồng tiền hụi chết. Từ tháng 12-2018, anh L chị M trả dần cho bà mỗi lần từ 2.000.000 – 3.000.000 đồng, mỗi lần nhận tiền bà có ghi sổ theo dõi, tổng cộng anh L, chị M trả được 80.000.000 đồng, còn nợ lại 350.000.000 đồng. Từ tháng 01-2020 (âm lịch) thì không trả tiền cho bà nữa. Các dây hụi hiện nay đã mãn, bà đã trả thay các phần hụi chết cho anh L, chị M. Nay bà yêu cầu vợ chồng anh L, chị M trả cho bà tổng số tiền 350.000.000 đồng, không yêu cầu tính lãi.

Bị đơn chị Huỳnh Thị Quế M trình bày: Chị thừa nhận có tham gia góp hụi do bà H làm chủ thảo. Chị và anh L có tham gia góp 02 dây hụi ngày 09- 9-2017 âm lịch và ngày 21-01-2018 âm lịch như bà H trình bày, do làm ăn khó khăn nên chị chậm đóng tiền hụi chết cho bà H, hiện nay chị còn nợ tiền hụi chết của bà H là 160.000.000 đồng. Đối với dây hụi ngày 15-6-2018 vợ chồng chị chỉ nhận tiền hụi dùm cho em ruột chị - chị Huỳnh Thị Ngọc Y (tên thường gọi là T, Tuyết M), khi nhận tiền hụi thì chị và anh L đến nhà bà H để nhận do chị Y đi bán nhãn ở Campuchia nên vợ chồng chị nhận thay, khi nhận anh L có viết dòng chữ “Mợ tám gơm Hụi T”. Nay chị không đồng ý trả cho bà H khoản tiền hụi này. Chị đồng ý trả cho bà H 160.000.000 đồng nhưng do hoàn cảnh khó khăn nên xin được trả dần mỗi tháng 3.000.000 đồng.

Bị đơn anh Phan Đức L trình bày: Anh thống nhất lời trình bày của chị M. Khi nhận tiền hụi dùm cho em vợ anh – chị Y dây hụi ngày 15-6-2018 âm lịch, vợ chồng anh đến nhà bà H để nhận tiền đăng hụi, giấy đăng hụi ngày 19-6-2018 âm lịch do bà H viết, vì bà H viết giấy hụi đăng hụi cho vợ chồng anh mà vợ chồng anh chỉ nhận tiền hụi dùm cho chị Y nên anh có viết thêm dòng chữ “Mợ tám gơm Hụi Tuyết” rồi anh mới ký tên. Vợ chồng anh nhận đủ số tiền 157.000.000 đồng, sau đó chị M giao số tiền này cho chị Y. Nay anh đồng ý trả cho bà H số tiền 160.000.000 đồng; không đồng ý trả số tiền hụi chết của dây hụi ngày 15-6-2018 do dây hụi này chị Y là người tham gia góp hụi.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Huỳnh Thị Ngọc Y trình bày:

Chị có tham gia góp hụi do bà H làm chủ thảo như anh L chị M trình bày. Chị và bà H có quen biết nhau do chị có tham gia góp hụi do bà H là chủ thảo. Do chị làm ăn thất bại bà H không cho tham gia góp hụi nữa nên chị nói với chị M nói lại với bà H để bà H cho tham gia góp hụi để chị có vốn làm ăn; khi chị M nói thì bà H nói nếu anh L, chị M bảo lãnh thì bà H đồng ý cho tham gia góp hụi. Chị hốt hụi kỳ thứ nhất, dây hụi 10.000.000 đồng, chị không nhớ ngày, do chị M anh L nhận tiền hụi dùm cho chị, sau đó chị M trực tiếp giao tiền hụi cho chị và 01 giấy đăng hụi, số tiền chị hốt hụi được là khoảng 160.000.000 đồng, chị không nhớ chính xác. Sau khi hốt hụi, chị đóng tiền hụi chết được vài lần thì ngưng cho đến nay. Mỗi khi đóng tiền hụi chị gửi tiền cho chị M để đóng hụi cho bà H. Khi tham gia góp hụi chị cũng không gặp trực tiếp bà H để thỏa thuận việc tham gia góp hụi mà chị thông qua chị M để tham gia góp hụi của bà H. Mọi vấn đề góp hụi, hốt hụi chị đều thông qua chị M để chị M nói lại với bà H chứ chị không gặp trực tiếp bà H. Chị xác định chị còn nợ bà H 19 kỳ hụi chết tương ứng số tiền 190.000.000 đồng, do làm ăn khó khăn nên không gửi tiền chị M để đóng hụi cho bà H. Nay chị đồng ý trả cho bà H số tiền 190.000.000 đồng, nhưng chị xin trả dần 2.000.000 đồng/tháng cho đến khi hết số nợ trên.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Huyện Dương Minh Châu:

Về tố tụng: Thẩm phán thụ lý vụ án, thu thập chứng cứ, chuẩn bị xét xử và quyết định đưa vụ án ra xét xử đều bảo đảm đúng quy định về thời hạn, nội dung, thẩm quyền của Bộ luật Tố tụng dân sự; Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng trình tự, thủ tục đối với phiên tòa dân sự.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà H, buộc anh L, chị M trả cho bà H số tiền 350.000.000 đồng; ghi nhận bà H không yêu cầu tính tiền lãi. Về án phí: Anh L chị M phải chịu theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên toà, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về nội dung: Bà H xác định anh L, chị M tham gia 03 dây hụi 10.000.000 đồng/tháng do bà H làm chủ gồm: Dây hụi ngày 09-9-2017, dây hụi ngày 21-01-2018 và dây hụi ngày 15-6-2018 âm lịch; anh L chị M đã hốt hụi, đóng lại hụi chết đến tháng 12-2018 thì ngưng đóng hụi, còn nợ bà H tiền hụi chết của 03 dây hụi là 430.000.000 đồng sau đó trả dần cho bà được 80.000.000 đồng, còn nợ lại 350.000.000 đồng. Bà yêu cầu vợ chồng anh Phan Đức L, chị Huỳnh Thị Quế M trả cho bà số tiền nợ hụi còn nợ là 350.000.000 đồng, không yêu cầu tính lãi.

[1.1] Xét yêu cầu khởi kiện của bà H thấy rằng: Anh L, chị M thống nhất việc tham gia góp hụi, lĩnh hụi, ký nhận hụi và thời điểm ngưng đóng tiền hụi chết cho bà H của hai dây hụi ngày 09-9-2017 âm lịch và dây hụi ngày 21-01- 2018 âm lịch. Anh chị hốt hụi kỳ thứ nhất sau đó đóng tiền hụi chết đến tháng 12-2018 âm lịch thì ngưng do làm ăn khó khăn nên anh chị trả dần cho bà H mỗi lần từ 2.000.000 đồng – 5.000.000 đồng, hiện còn nợ số tiền 160.000.000 đồng. Đối với dây hụi ngày 15-6-2018 anh L, chị M cho rằng nhận tiền hụi dùm cho chị Huỳnh Thị Ngọc Y – tên thường gọi Tuyết Minh là em ruột của chị M, khi nhận tiền hụi anh chị có ký tên nhưng ghi thêm dòng chữ “Mợ tám gơm Hụi tuyết” để xác nhận việc chị Y là người tham gia góp hụi, số tiền 190.000.000 đồng còn nợ bà H là dây hụi chị Y tham gia nên anh chị không đồng ý trả cho bà H. Xét lời trình bày của anh L, chị M thấy rằng: Quá trình giải quyết vụ án anh L cung cấp chứng cứ là đoạn ghi âm cuộc nói chuyện giữa vợ chồng anh L và bà H khi anh chị nhận tiền hụi. Tuy nhiên, bà H không thừa nhận việc đồng ý cho chị Y tham gia góp hụi, đoạn ghi âm cũng không thể hiện việc bà H xác nhận cho chị Y tham gia góp hụi; mặt khác, chị Y thừa nhận bà H không đồng ý cho chị tham gia góp hụi mà phải có sự bảo lãnh của chị M anh L, chị không gặp trực tiếp bà H để thỏa thuận việc tham gia góp hụi mà thông qua chị M để tham gia góp hụi, hốt hụi, đóng tiền hụi chết cho bà H (Bút lục 43) và trên thực tế bà H cũng đăng tiền hụi trực tiếp cho vợ chồng anh L, danh sách hụi và giấy nhận tiền hụi đều thể hiện vợ chồng anh L (Bé M) tham gia góp hụi và nhận tiền hụi, bà H thu tiền hụi chết từ anh L, chị M. Do đó, lời trình bày của anh L, chị M là không có cơ sở chấp nhận.

[1.2] Anh L, chị M xin được trả dần mỗi tháng 3.000.000 đồng cho đến khi hết nợ. Xét thấy, việc anh L chị M ngưng góp tiền hụi chết cho bà H đã làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của bà H; các dây hụi đã mãn, bà H đã thực hiện xong nghĩa vụ góp thay cho chị M anh L và bà H không đồng ý cho trả dần do đó yêu cầu xin trả dần của anh L chị M không được chấp nhận.

[2] Xét lời trình bày của chị Y: Chị Y đồng ý chịu trách nhiệm trả cho bà H số tiền 190.000.000 đồng và xin được trả dần mỗi tháng 2.000.000 đồng. Bà H xác định chị Y không tham gia góp hụi dây hụi ngày 15-6-2018 âm lịch nên không yêu cầu chị Y có trách nhiệm trả tiền cho bà. Chị Y cũng không cung cấp được chứng cứ chứng minh việc chị tham gia góp hụi do bà H làm chủ nên đề nghị của chị Y không được chấp nhận.

Từ phân tích trên, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà H là có căn cứ và đúng quy định pháp luật. Ghi nhận bà H không yêu cầu tính tiền lãi.

[3] Án phí dân sự sơ thẩm: Theo quy định tại Khoản 2, Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội thì bị đơn phải chịu tòan bộ án phí dân sự sơ thẩm khi toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận, cụ thể: Anh L, chị M phải chịu: 350.000.000 đồng x 5% = 17.500.000 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 471 của Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 8, 16, 24 và Điều 25 của Nghị định 19/2019/NĐ-CP ngày 19-02-2019 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường; Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Khoản 2, Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội 1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Thu H đối với anh Phan Đức L, chị Huỳnh Thị Quế M về việc “Tranh chấp hợp đồng góp hụi”.

Anh Phan Đức L và chị Huỳnh Thị Quế M có trách nhiệm trả cho bà Nguyễn Thị Thu H số tiền 350.000.000 (ba trăm năm mươi triệu) đồng.

Ghi nhận bà H không yêu cầu tính lãi.

2. Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

3. Án phí dân sự sơ thẩm:

- Anh L, chị M phải chịu 17.500.000 (mười bảy triệu năm trăm nghìn) đồng.

- Bà H không phải chịu án phí. Chi cục Thi hành án Dân sự Huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh hoàn trả bà H 8.750.000 (tám triệu bảy trăm năm mươi nghìn) đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0004317 ngày 06-3-2020.

4. Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

5. Các đương sự được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

250
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 20/2020/DS-ST ngày 18/08/2020 về tranh chấp hợp đồng góp hụi

Số hiệu:20/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Dương Minh Châu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 18/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;