TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGA SƠN, TỈNH THANH HOÁ
BẢN ÁN 20/2019/HS-ST NGÀY 19/06/2019 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG GIẢ
Ngày 19 tháng 6 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 13/2019/TLST-HS ngày 25 tháng 4 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2019/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo:
Nguyễn Thị C, sinh năm 1971 tại xã V, huyện K, tỉnh Ninh Bình; nơi cư trú: thôn 3, xã M, huyện K, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: Thiên Chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Đ (đã chết) và bà Đỗ Thị K; có chồng là Phan Văn C và 03 con; tiền án: không; tiền sự: không; hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 11h40’ ngày 02/11/2018, tại khu vực chùa K, thị trấn N, huyện N, tổ công tác Công an huyện Nga Sơn phát hiện Nguyễn Thị C vừa bán 60 gói hạt nêm Knorr loại 900g và 140 gói hạt nêm Knorr loại 175g cho ông Lý Văn B trú tại xóm 3, xã N, huyện N, tỉnh Thanh Hóa với tổng số tiền là 3.980.000 đồng, nhưng không có hóa đơn chứng minh nguồn gốc, xuất xứ, nên đã lập biên bản, tạm giữ và niêm phong toàn bộ số hạt nêm Knorr; tạm giữ 4.000.000 đồng; 01 điện thoại OPPO; 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda biển kiểm soát 35F2-3799 của C.
Quá trình điều tra, Cơ quan CSĐT Công an huyện Nga Sơn đã xác định được: Nguyễn Thị C đi giao bán hàng tạp hóa tại Ninh Bình và các tỉnh lân cận. Khi đến tỉnh Nam Định bán hàng, C gặp và biết một người đàn ông tên N (không rõ họ, địa chỉ cụ thể ở đâu) giới thiệu có bán hàng hạt nêm Knorr không phải là sản phẩm chính hãng với giá rẻ và dặn khi đi bán phải cẩn thận lực lượng chức năng phát hiện. Vì hám lợi nên C đồng ý, hai bên trao đổi số điện thoại để liên lạc khi có khách đặt mua hàng. Khi sang địa bàn huyện N, tỉnh Thanh Hóa bán hàng, C gặp ông Lý Văn B (chủ cửa hàng kinh doanh tạp hóa), nên đã mời ông B mua hàng hạt nêm Knorr với giá rẻ và thỏa thuận giá cả, cụ thể hạt nêm Knorr loại có trọng lượng 900g giá 43.000đ/gói và hạt nêm Knorr loại có trọng lượng 175g giá 10.000đ/gói, ông B đồng ý lấy số điện thoại của C để khi mua hàng sẽ liên hệ sau. Ngày 31/10/2018, ông B gọi điện thoại cho C hỏi mua 60 gói hạt nêm Knorr loại 900g và 140 gói hạt nêm Knorr loại 175g, tổng tiền hàng là 3.980.000 đồng. Sau khi thống nhất số hàng và giá cả với ông B, C gọi điện thoại cho ông N đặt mua hàng và thỏa thuận giá với số lượng 60 gói hạt nêm Knorr loại 900g giá 38.000đ/gói và 140 gói hạt nêm Knorr loại 175g giá 8.000đ/gói. Hai bên hẹn giao hàng tại bến đò N, tỉnh Nam Định.
Sáng ngày 02/11/2018, C đến bến đò N nhận hàng, rồi gọi điện thoại cho ông Lý Văn B hẹn thời gian và địa điểm giao hàng. C điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda, màu đen, biển kiểm soát 35F2-3799 chở hàng đến điểm hẹn để giao cho ông B. Khi vừa giao hàng cho ông B xong, C nhận 4.000.000 đồng ông B trả nhưng chưa kịp trả lại số tiền còn thừa 20.000 đồng cho ông B thì bị Công an huyện Nga Sơn phát hiện, thu giữ toàn bộ tang vật, phương tiện liên quan.
Tại kết luận giám định số 6709/C09 (P4) ngày 07/12/2018 của Viện khoa học hình sự - Bộ Công an kết luận: 02 gói hạt nêm nhãn hiệu Knorr “từ nguồn thịt tươi và ngon” loại 900g/gói (ký hiệu M1) gửi giám định có khối lượng (kể cả bao bì là: 893,4g/gói và 876,5g/gói đều không cùng loại với gói hạt nêm nhãn hiệu Knorr “từ nguồn thịt tươi và ngon” loại 900g/gói do Công ty TNHH Quốc tế Unilever Việt Nam cung cấp làm mẫu so sánh. Trong các mẫu hạt nêm ký hiệu M1, M2 gửi giám định đều không tìm thấy các chất độc thường gặp.
Đối với hạt nêm mang nhãn hiệu Knorr loại 175g/gói, Công ty TNHH Quốc tế Unilever Việt Nam có công văn số 128/2018/BP-UVN ngày 06/12/2018 trả lời: Đối với trường hợp hạt nêm Knorr trọng lượng 175g, Công ty đã ngưng sản xuất từ ngày 18/5/2018. Tại biên bản mở niêm phong ngày 04/01/2019 tiến hành mở 02 thùng cát tông có tổng số 138 gói hạt nêm nhãn hiệu Knorr loại 175g, trên vỏ bao gói ở mỗi gói hạt nêm có in NSX 05/07/2018, HSD 05/07/2020.
Đối với ông Lý Văn B đã mua hạt nêm Knorr của C nhưng không biết đó là hạt nêm Knorr giả. Ngày 15/3/2019, Cơ quan CSĐT Công an huyện Nga Sơn đã trả lại cho ông B số tiền 4.000.000 đồng.
Tại bản cáo trạng số 16/CT-VKSNS-KT ngày 23 tháng 4 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa đã truy tố Nguyễn Thị C về tội: “Buôn bán hàng giả là phụ gia thực phẩm” theo quy định tại khoản 1 Điều 193 Bộ luật hình sự (BLHS).
Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nga Sơn giữ quyền công tố giữ nguyên quan điểm kết tội đối với bị cáo theo tội danh, điều khoản đã nêu trong cáo trạng, không thay đổi, bổ sung gì thêm đối với nội dung vụ án. Sau khi phân tích, đánh giá toàn diện vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65; khoản 1 Điều 193 BLHS xử phạt Nguyễn Thị C từ 30(ba mươi) đến 36(ba mươi sáu) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 năm. Về xử lý vật chứng: áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 BLHS; khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) tuyên tịch thu tiêu hủy toàn bộ số hạt nêm Knorr là hàng giả đã được thu giữ, niêm phong trong các thùng cát tông; tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01(một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO và 01(một) xe mô tô nhãn hiệu Honda là những công cụ, phương tiện phạm tội.
Bị cáo Nguyễn Thị C thừa nhận và khai báo toàn bộ hành vi buôn bán hàng giả là phụ gia thực phẩm trong vụ án đúng như nội dung bản cáo trạng đã mô tả, không có ý kiến gì đối với các văn bản tố tụng hình sự, cũng như lời khai của người làm chứng trong vụ án. Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì, chỉ đề nghị HĐXX giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:
[1] Về tội danh: Lời khai báo của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người làm chứng và các văn bản tố tụng hình sự khác, như: biên bản vụ việc; biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu; kết luận giám định… cũng như các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập theo trình tự luật định, phản ánh đúng sự thật khách quan của vụ án.
Như vậy đã có đủ cơ sở khẳng định: Khoảng 11h40’ ngày 02/11/2018, tại khu vực chùa K (thị trấn N), Công an huyện Nga Sơn phát hiện Nguyễn Thị C đang bán cho ông Lý Văn B 60 gói hạt nêm Knorr có trọng lượng 900g và 140 gói hạt nêm Knorr loại có trọng lượng 175g với tổng số tiền là 3.980.000 đồng nhưng không có hóa đơn chứng minh nguồn gốc, xuất xứ. Số hạt nêm Knorr trên Nguyễn Thị C khai nhận đã mua của một người đàn ông tên N ở Nam Định với giá38.000đ/gói hạt nêm Knorr loại 900g và 8.000đ/gói hạt nêm Knorr loại 175g, sau đó vận chuyển số hàng này vào thị trấn N bán cho ông Lý Văn B với giá 43.000đ/gói hạt nêm Knorr loại 900g và 10.000đ/gói hạt nêm Knorr loại 175g.
Toàn bộ số hạt nêm Knorr này không phải là sản phẩm chính hãng, nhưng vì lợi nhuận nên mua lại để bán kiếm lời. Hành vi nêu trên của Nguyễn Thị C đã phạm vào tội: “Buôn bán hàng giả là phụ gia thực phẩm”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 193 BLHS.
Quan điểm buộc tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa đối với bị cáo theo tội danh và khung hình phạt như bản cáo trạng là hoàn toàn thỏa đáng, đảm bảo căn cứ pháp luật.
[2] Về hình phạt: Hành vi của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Hành vi ấy không những đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách quản lý kinh tế trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, thương mại của Nhà nước, gây ảnh hưởng đến sức khỏe của cộng đồng, mà còn gây bức xúc, bất bình trong quần chúng nhân dân.
Xét nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, chồng là người khuyết tật nặng đang được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng, có tiền sử suy thận giai đoạn IV.
Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào và được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51 BLHS là thành khẩn khai báo; bố của bị cáo là người có công với Nhà nước, được tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng Nhì vì đã có thành tích trong cuộc Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, xem xét yếu tố nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như đã phân tích, HĐXX thấy bị cáo có nhân thân tốt, có hai tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng, nên chỉ cần lên cho bị cáo một mức án phù hợp, cho bị cáo được hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách dưới sự theo dõi, giám sát của gia đình và chính quyền địa phương cũng đủ điều kiện để cải tạo bị cáo trở thành người công dân tốt, đồng thời thể hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước đối với người phạm tội.
Về hình phạt bổ sung: Sau khi xem xét, cân nhắc, HĐXX thấy không cần áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 193 BLHS đối với bị cáo, vì bị cáo là người lao động tự do, thu nhập không ổn định, gia đình bị cáo thuộc diện khó khăn về kinh tế.
[3] Về vật chứng: Xét thấy toàn bộ số hạt nêm Knorr đã được thu giữ, niêm phong là hàng giả, là vật cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy; chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO và xe mô tô nhãn hiệu Honda là những phương tiện phạm tội nên cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.
[4] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: đều thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục và căn cứ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS). Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì đối với các hành vi, quyết định tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong các giai đoạn tố tụng đã thực hiện và ban hành đều hợp pháp, tuân thủ các nguyên tắc tố tụng cũng như đảm bảo việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm được giao theo quy định.
[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 193; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; Điều 65 BLHS:
- Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thị C phạm tội: “Buôn bán hàng giả là phụ gia thực phẩm”.
- Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị C 30(ba mươi) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05(năm) năm, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã M, huyện K, tỉnh Ninh Bình giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật Thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy 03(ba) thùng cát tông được đánh số thứ tự 1; 2; 3, bên trong có 58 gói hạt nêm Knorr loại 900g được niêm phong dán kín, có chữ ký viết tay của những bên có liên quan và các hình con dấu của Công an thị trấn Nga Sơn, huyện Nga Sơn; 02(hai) thùng cát tông được đánh số thứ tự 4; 5, bên trong có 138 gói hạt nêm Knorr loại 175g được niêm phong dán kín, có chữ ký viết tay của những bên có liên quan và các hình con dấu của Cơ quan CSĐT Công an huyện Nga Sơn; 01(một) túi giấy niêm phong, ký hiệu PS1 042905 được niêm phong kín bởi các chữ ký viết tay của các bên có liên quan, bên trong gồm:
01 gói hạt nêm nhãn hiệu Knorr (từ nguồn thịt tươi và ngon) loại 900g/gói, 02 gói hạt nêm nhãn hiệu Knorr (bổ sungVitamin tốt cho sức khỏe) loại 175g/gói; tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu trắng, đã cũ; 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda (ghi trên thân xe) đã cũ, màu đen, có nhiều vết hoen ghỉ, biển kiểm soát 35F2-3799 (theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 25/4/2019 giữa Cơ quan CSĐT Công an huyện Nga Sơn và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nga Sơn).
Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 BLTTHS; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: bị cáo Nguyễn Thị C phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).
Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 BLTTHS: bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 20/2019/HS-ST ngày 19/06/2019 về tội buôn bán hàng giả là phụ gia thực phẩm
Số hiệu: | 20/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Nga Sơn - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/06/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về