Bản án 20/2019/HNGĐ-ST ngày 26/09/2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình 

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀ TRUNG, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 20/2019/HNGĐ-ST NGÀY 26/09/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH 

Ngày 26 tháng 9 năm 2019, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Hà Trung, xét xử công khai sơ thẩm vụ án thụ lý số 36/2019/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 3 năm 2019 về “Tranh chấp hôn nhân gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 22/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 09 tháng 8 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1983.

Địa chỉ: thôn Đ, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa, có mặt.

Đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn T

Địa chỉ: thôn Đ, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa, có mặt.

2. Bị đơn: Chị Vũ Thị H, sinh năm 1981.

Địa chỉ: thôn Đ, xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 04/3/2019 nguyên đơn là anh Nguyễn Văn T trình bày: Giữa nguyên đơn và bị đơn là chị Vũ Thị H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn ngày 31/3/2007 tại Uỷ ban nhân dân xã H, huyện H, tỉnh Thanh Hóa. Cuộc sống vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến năm 2010 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng về quan điểm sống, tính tình không hợp nên thường xuyên mắng chửi nhau. Dù đã được hai bên gia đình hòa giải nhưng không thể hàn gắn được tình cảm, đến cuối năm 2010 vợ chồng sống ly thân cho đến nay. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, anh Thùy đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Vũ Thị H.

Về con chung: Anh T khai anh và chị H có một con chung, cháu tên là Nguyễn Thị Hải V, sinh ngày 06/4/2008. Hiện cháu V đang ở với chị H. Anh T đề nghị chị H trực tiếp nuôi dưỡng cháu V, anh T cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị H mỗi tháng là 1.000.000 đồng cho đến khi cháu V đủ 18 tuổi.

Về tài sản: Anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tòa án đã triệu tập hợp lệ chị H đến Tòa án để viết bản khai nhưng chị H vẫn không có mặt mà không có lý do nên không có được lời khai của chị H.

Tại phiên tòa, nguyên đơn và đại diện hợp pháp của nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện về hôn nhân và con cái. Riêng phần cấp dưỡng nuôi con chung, nguyên đơn và đại diện hợp pháp của nguyên đơn không đồng ý cấp dưỡng nuôi con chung.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hà Trung phát biểu quan điểm: Quá trình nhận đơn khởi kiện, thụ lý, giải quyết và quyết định đưa vụ án ra xét xử và tại phiên toà, Hội đồng xét xử và thư ký đã chấp hành đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự. Đương sự đã được thực hiện các quyền của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh T và giao cháu Nguyễn Thị Hải V, sinh ngày 06/4/2008 cho chị H trực tiếp nuôi, anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung là phù hợp với quy định tại Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Chị H đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ và hoà giải nhưng vẫn vắng mặt nên Toà án không tiến hành hoà giải được vụ án. Chị H cũng đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vẫn không có mặt nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt chị H là phù hợp với quy định tại khoản 2, Điều 227; khoản 3, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự. Trong vụ án này anh T bị khuyết tật nên có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi nhưng không có đương sự hay người liên quan nào yêu cầu Tòa án tuyên bố anh T có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi. Tuy nhiên, xét thấy việc phải có người đại diện hợp pháp cho anh T là cần thiết nên Tòa án đã đưa ông Nguyễn Văn T (bố anh T) vào tham gia tố tụng với tư cách đại diện hợp pháp của nguyên đơn để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho anh T.

[2]. Về hôn nhân: Anh Nguyễn Văn T và chị Vũ Thị H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn, như vậy là hôn nhân hợp pháp. Theo anh T cuộc sống vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến năm 2010 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng về quan điểm sống, tính tình không hợp nên thường xuyên mắng chửi nhau, đến cuối năm 2010 vợ chồng sống ly thân cho đến nay. Theo kết quả xác minh ngày 29/4/2019 có xác nhận của xã H, anh T và chị H kết hôn năm 2007, đến năm 2010 do vợ chồng bất đồng quan điểm sống nên chị H bỏ về xã H sinh sống cho đến nay. Như vậy, một thời gian dài, vợ chồng sống ly thân và không còn quan tâm đến nhau, chứng tỏ cuộc sống vợ chồng đã trở nên trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, căn cứ khoản 1, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho anh T được ly hôn chị H là phù hợp.

[3]. Về con chung: Anh T khai, vợ chồng có 01 con chung, cháu tên là Nguyễn Thị Hải V, sinh ngày 06/4/2008. Anh T cũng xuất trình cho Tòa án bản sao giấy khai sinh của cháu V, trong giấy khai sinh thể hiện cháu V là con chung của anh T và chị H. Mặt khác, cháu V sinh ra trong thời kỳ hôn nhân nên đủ cơ sở khẳng định cháu V là con chung của anh T và chị H. Mặc dù không có lời khai ghi nguyện vọng của cháu V (do Tòa án triệu tập hợp lệ chị H để đưa cháu V đến Tòa án viết bản khai nhưng chị H vẫn không đến Tòa án và không đưa cháu V đến Tòa án), tuy nhiên từ khi vợ chồng sống ly thân, cháu V do chị H nuôi dưỡng, anh T cũng có nguyện vọng để chị H nuôi cháu V. Vì vậy, giao cháu V cho chị H nuôi dưỡng là phù hợp. Do anh T bị khuyết tật và không tự nguyện cấp dưỡng nuôi con chung, chị H lại không có mặt tại Tòa án nên dành quyền khởi kiện cho chị H về yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung là phù hợp..

[4]. Về tài sản: Anh T không yêu cầu nên miễn xét.

[5]. Về án phí: Theo quyết định số 8736/QĐ-UBND ngày 09/12/2016 của Ủy ban nhân dân huyện Hà Trung thì anh Thùy thuộc đối tượng khuyết tật nên được miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm.

các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 56; Điều 81, Điều 82, Điều 83, khoản 1 Điều 88 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm đ, khoản 1, Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa anh Nguyễn Văn T và chị Vũ Thị H.

2. Về con chung: Công nhận cháu Nguyễn Thị Hải V, sinh ngày 06/4/2008 là con chung của anh Nguyễn Văn T và chị Vũ Thị H. Giao cháu V cho chị H trực tiếp nuôi. Anh T có quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở.

Dành quyền khởi kiện cho chị Vũ Thị H về yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.

3. Về án phí: Miễn nộp toàn bộ tiền án phí dân sự sơ thẩm cho anh Nguyễn Văn T. Trả lại cho anh T số tiền tạm ứng án án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số AA/2017/0000428 ngày 05/3/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Hà Trung.

4. Về quyền kháng cáo: Anh Nguyễn Văn T và ông Nguyễn Văn T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Chị Vũ Thị H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

284
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 20/2019/HNGĐ-ST ngày 26/09/2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình 

Số hiệu:20/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hà Trung - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;