TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC LINH, TỈNH BÌNH THUẬN
BẢN ÁN 20/2019/HNGĐ-ST NGÀY 14/03/2019 VỀ TRANH CHẤP CẤP DƯỠNG
Trong ngày 14 tháng 3 năm 2019, tại Hội trường Tòa án nhân dân huyện Đức Linh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 391/2018/TLST-HNGĐ, ngày 01 tháng 10 năm 2018,về tranh chấp việc cấp dưỡng, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 21/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 30/01/2019, Quyết định hoãn phiên tòa số: 10/2019/QĐST-HNGĐ ngày 19/2/2019, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Trần Q, sinh năm 1986. Có mặt.
Nơi cư trú: Tổ 4, khu phố 7, thị trấn VX, huyện Đ, tỉnh Bình Thuận.
2. Bị đơn: Lê Thị H, sinh năm 1977. Vắng mặt.
Nơi cư trú: Tổ 11, khu phố 7, thị trấn VX, huyện Đ, tỉnh Bình Thuận.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 19/9/2018, bản tự khai, tại phiên tòa nguyên đơn ông Trần Q trình bày: Ông Trần Q và bà Lê Thị H trước đây là vợ chồng, nhưng đã ly hôn vào năm 2013. Ông Q và bà H có 01 con chung là Trần Thị Kim T, sinh ngày 26/10/2007. Khi ly hôn vào năm 2013, thì bà H là người trực tiếp nuôi cháu T, ông Q cấp dưỡng nuôi con 01 tháng là 500.000 đồng. Đến năm 2015, do cháu T không muốn sống với mẹ mà trở về sống với ông, bà nội. Vì vậy ông Q làm đơn khởi kiện thay đổi người trực tiếp nuôi con và được Tòa án xét xử chấp nhận cho ông Q nuôi con và bà H phải cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 300.000 đồng. Ông Q cho rằng do cháu T đã học cấp trung học cơ sở, chi phí cho việc chăm sóc, nuôi dưỡng rất tốn kém, nên mức cấp dưỡng 300.000 đồng/tháng không còn phù hợp. Do đó ông Q yêu cầu bà H tăng mức cấp dưỡng cho cháu T lên từ 1.000.000 đồng đến 1.500.000 đồng/tháng.
Tại biên bản lấy lời khai của đương sự ngày 28/1/2019 bị đơn bà Lê Thị H trình bày: Sau khi thay đổi việc nuôi con từ bà H sang qua ông Q, thì ông Q không nuôi con T mà giao cho ông bà nội trực tiếp nuôi. Trong thời gian qua, ngoài số tiền cấp dưỡng 300.000 đồng/tháng, nếu cháu T cần chi phí cho việc gì thì bà H chu cấp, như: Chi phí học ở trường, chi phí khám chữa bệnh, mua sắm quần áo, sách vỡ; ngoài ra bà H còn mua bảo hiểm cho cháu T, với số tiền đóng bảo hiểm là 8.000.000 đồng/năm. Nay bà H không đồng ý nâng mức cấp dưỡng cho cháu T lên 1.500.000 đồng/tháng. Vì: Ông Q không có trách nhiệm nuôi con, nên bà H xin được nuôi con và không yêu cầu cấp dưỡng, hiện tại bà H đã có chồng khác và đã có 01 con nhỏ, thu nhập không ổn định.
Qua xác minh xác định được: Sau khi thay đổi việc nuôi con từ bà H sang ông Q, thì cháu T ở với ông bà nội, hàng tháng bà H và ông Q có gửi tiền chu cấp cho cháu T. Việc bà H cấp dưỡng 300.000 đồng là quá ít không đủ trang trãi cho cháu T. Nguyện vọng của cháu T vẫn thích ở với ông bà nội.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận phát biểu ý kiến:
Thẩm phán đã thụ lý hồ sơ vụ án đúng thẩm quyền, gửi thông báo cho Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Linh và các đương sự đúng thời hạn luật định, xác định đúng quan hệ pháp luật đang tranh chấp. Đối với Hội đồng xét xử đã tiến hành xét xử vụ án theo đúng trình tự, thủ tục mà pháp luật tố tụng dân sự đã quy định. Thư ký tuân thủ đúng pháp luật.
Nguyên đơn tuân thủ đúng pháp luật, bị đơn không tuân thủ các quy định của pháp luật.
Về nội dung vụ án: Thấy rằng mức cấp dưỡng cho cháu T 300.000 đồng/tháng là quá ít, nên tăng mức cấp dưỡng lên 1.500.000 đồng là phù hợp.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên toà và căn cứ kết quả tranh tụng, Tòa án nhận định như sau:
[1] Về việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp: Căn cứ vào nội dung, yêu cầu tại đơn khởi kiện đề ngày 19/9/2018, Tòa án xác định đây là vụ án: Tranh chấp về cấp dưỡng, theo quy định tại khoản 5 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về thẩm quyền: Vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận theo quy định tại khoản 1 Điều 35 và Khoản 1, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai, nhưng vẫn vắng mặt, nên áp dụng Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt các đương sự.
[3] Về nội dung yêu cầu tăng mức cấp dưỡng: Qua nghiên cứu tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ, qua đi thực tế xác minh, thì thấy rằng: Sau khi ông Q và bà H ly hôn, thì cháu T con chung của ông Q bà H giao cho ông Q nuôi và bà H cấp dưỡng cho cháu T 300.000 đồng/tháng, bản thân cháu T không trực tiếp sống chung với ông Q, mà sống cùng với ông bà nội của cháu, bản thân ông Q đi làm ăn ở xa. Hiện tại ông Q và bà H đều đã có gia đình riêng, kinh tế cũng khó khăn. Tuy nhiên, mức cấp dưỡng 300.000 đồng/tháng so với mức sống trung bình hiện nay ở địa phương là thấp. Do vậy cần điều chỉnh mức mức dưỡng tăng lên là phù hợp, để tạo điều kiện cho cháu T sống và học tập được tốt hơn. Theo yêu cầu của ông Q là buộc bà H tăng mức cấp dưỡng lên từ 1.000.000 đồng đến 1.500.000 đồng/tháng, nhưng xét hiện tại bà H làm nghề buôn bán nhỏ, thu nhập không ổn định, bản thân bà H đang có con nhỏ, ngoài ra trong cuộc sống, thì bà H thường thăm nom và mua thêm quần áo, sách vỡ, cho tiền, đưa cháu T đi khám bệnh và mua bảo hiểm cho cháu. Từ đó Hội đồng xét xử cân nhắc nâng mức cấp dưỡng lên 1.000.000 đồng/tháng là phù hợp với Điều 107, Điều 110 và Điều 116 Luật hôn nhân và gia đình.
[4] Về án phí: Bà Lê Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm,theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: Khoản 5 Điều 28, khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 107, 110, 116 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
1. Buộc bà Lê Thị H có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con Trần Thị Kim T, sinh ngày 26/10/2007 mỗi tháng là 1.000.000 đồng, cho đến khi cháu T tròn 18 tuổi, kể từ ngày Bản án này có hiệu lực thi hành. Mức cấp dưỡng đã tuyên trong Bản án số 44/2015/HNGĐ-ST ngày 17/9/2015 của Tòa án nhân dân huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận sẽ chấm dứt hiệu lực, kể từ ngày Bản án này có hiệu lực pháp luật.
2.Về án phí: Bà Lê Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
3.Về quyền kháng cáo:Báo cho nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (14/3/2019), bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể ngày nhận được hoặc ngày niêm yết bản án; để Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm.
4. Trường hợp bản án thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 20/2019/HNGĐ-ST ngày 14/03/2019 về tranh chấp cấp dưỡng
Số hiệu: | 20/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đức Linh - Bình Thuận |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 14/03/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về