Bản án 20/2018/HS-ST ngày 06/03/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SỐP CỘP, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 20/2018/HS-ST NGÀY 06/03/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 06 tháng 3 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 23/2018/TLST- HS ngày 31 tháng 01 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 50/2018/QĐXXST-HS, ngày 23/02/2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lò Thị A – Sinh năm 1980 tại huyệnSốp Cộp, tỉnh Sơn La Nơi cư trú: Bản N, xã M, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp:trồng trọt; trình độ văn hóa: không biết chữ; dân tộc: thái; con ông: Lò Văn T và bà: Lò Thị C (đều đã chết); bị cáo có chồng và có 02 con; Tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày22/11/2017 đến nay; có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Vì Văn Kh

Nơi cư trú: Bản N, xã M, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La; có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 14 giờ ngày 22 tháng 11 năm 2017, tại bản T, xã M, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, tổ công tác Công an huyện Sốp Cộp đã phát hiện và bắt quả tang Lò Thị A đang có hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ: 01gói nilon màu xanh bên trong có chứa 13 viên nén màu hồng nghi là ma túy tổng hợp A khai nhận là ma túy tổng hợp; 01 chiếc xe máy nhãn hiệu YAMAHA NOZZA, màu đỏ biển kiểm soát 26F1-068.49; 01 Giấy chứng nhận đăng ký mô tô, xe máy số 001678 mang tên Lò Thị A. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang thu giữ vật chứng và dẫn giải A về Công an huyện Sốp Cộp để điều tra làm rõ hành vi phạm tội theo quy định của pháp luật

Hồi 09 giờ 30 phút ngày 24/11/2017 tại Công an tỉnh Sơn La đã tiến hành lập Hội đồng bóc mở niêm phong, cân tịnh, lấy mẫu giám định và niêm phong lại vật chứng thu giữ. Kết quả cân tịnh 13 viên nén màu hồng thu giữ của A có trọng lượng là 1,26 gam. Lấy 05 viên bằng 0,48 gam làm mẫu giám định, ký hiệu A1. Số còn lại 08 viên bằng 0,78 gam, ký hiệu A2 là vật chứng lưu kho vật chứng công an huyện Sốp Cộp.

Kết luận giám định số: 25/KLMT ngày 29/11/2017 của Phòng KTHS - Công an tỉnh Sơn La, kết luận: “Mẫu giám định ký hiệu A1 là chất ma túy; Loại chất Methamphetamine; Trọng lượng mẫu gửi giám định là 0,48 gam. Trọng lượng chất ma túy thu giữ được là: 1,26 gam, loại chất Methamphetamine”.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Lò Thị A khai nhận: Khoảng 12 giờ ngày 22/11/2017, Lò Thị A một mình đi xe máy đến nhà em chồng tên là Vì Thị L cùng trú tại bản N, xã M, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La rủ đi đến nhà anh Lường Văn K, trú tại bản Khá, xã Mường Lạn, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La để mua chân hoẵng. Khi đến nhà anh K do tiền không đủ mua chân hoẵng nên Lò Thị A và Vì Thị L quay về nhà. Khi về đến khu vực Cụm Co Hạ, thuộc bản K, xã Mường Lạn, huyện Sốp Cộp thì Lò Thị A nói với Vì Thị L tìm mua ma túy tổng hợp sử dụng cho đỡ say rượu, Vì Thị L không nói gì. Ngay lúc đó, có một người phụ nữ dân tộc Thái không quen biết đi qua Lò Thị A hỏi và mua được 01 gói nilon màu xanh bên trong có chứa 13 viên nén màu hồng (ma túy tổng hợp) với giá 100.000đ (Một trăm nghìn đồng). Mua được ma túy Lò Thị A cầm gói ma túy trong lòng bàn tay phải không nói cho Vì Thị L biết rồi điều khiển xe máy về nhà. Khi về đến khu vực bản Tặc Tè, xã Mường Và, huyện Sốp Cộp thì gặp tổ công tác Công an huyện Sốp Cộp yêu cầu dừng xe kiểm tra, Lò Thị A đã vứt gói ma túy xuống lề đường và điều khiển xe máy chạy được khoảng 100 mét thì bị tổ công tác khống chế yêu cầu quay về chỗ vứt gói ma túy. Lò Thị A đã thừa nhận gói ma túy đó là do Lò Thị A vừa vứt mua về để sử dụng.

Cáo trạng số 15 /CT – VKS, ngày 31 tháng 01 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Sốp Cộp để xét xử bị cáo Lò Thị A về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu, phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên toà sau khi trình bày lời luận tội vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 3 Điều 7, điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s, khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo: Lò Thị A từ 18 đến 24 tháng tù; Đồng thời đề nghị miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo, xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Lò Thị A nhận tội và xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để sớm trở về với cộng đồng trở thành công dân có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Sốp Cộp, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo xuất trình tài liệu, chứng cứ phù hợp với quy định của pháp luật và không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Lò Thị A khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo đã trực tiếp tàng trữ 1,26 gam Methamphetamine với mục đích để sử dụng, hành vi tàng trữ chất ma túy của bị cáo đã phạm vào tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ hai năm đến bảy năm tù. Bộ luật hình sự năm 2015 có hiệu lực từ ngày 01/01/2018 có quy định tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tại Điều 249 đây là tội phạm được tách ra từ tội ghép theo Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999. Tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định có khung hình phạt tù từ01 đến 05 năm tù. Trong vụ án này số lượng ma túy bị cáo tàng trữ là không lớn; ngoài mục đích sử dụng ra bị cáo không còn mục đích nào khác do đó Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp truy tố bị cáo về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; đảm bảo quyền lợi của bị cáo và tính nhân đạo của pháp luật đối với người có hành vi phạm tội.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng, trực tiêp xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma túy, gây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương. Số lượng ma túy bị cáo tàng trữ tuy không lớn, nhưng nếu không được ngăn chặn kịp thời chất độc hại này sẽ được đưa vào cơ thể con người làm suy thoái giống loài, nếu để lây lan, trôi nổi trong xã hội làm cho tệ nạn ma túy tại địa phương ngày càng phức tạp. Do đó bị cáo cần phải bị trừng trị thích đáng nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; tại cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo là phụ nữ sinh sống ở vùng đặc biệt khó khăn, không được học tập nên trình độ hiểu biết pháp luật còn hạn chế do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[5] Xét về nhân thân của bị cáo: Bị cáo là người có nhân thân tốt thể hiện bị cáo chưa có tiền án tiền sự, ngoài lần phạm tội này bị cao luôn chấp hành tốt chủ trương đường lối, pháp luật của nhà nước. Tuy nhiên để trừng trị đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội, cũng như công tác đấu tranh phòng chống tội phạm về ma túy, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian nhất định mới đảm bảo cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.

[6] Đối với Vì Thị L, quá trình điều tra L khai nhận: Việc A mua ma túy L có nhìn thấy nhưng không tham gia cũng như không góp tiền mua cùng, bản thân chưa có tiền án, tiền sự về ma túy. Do đó, không đủ căn cứ để xử lý trong vụ án.

[7] Đối với người đã trực tiếp bán ma túy cho bị cáo HĐXX xét thấy hành vi mua bán đó là hành vi nguy hiểm cho xã hội cần phải bị xử lý hình sự, nhưng quá trình điều tra không xác định được đối tượng nên không có căn cứ để xử lý ở vụ án này, đề nghị cơ quan điều tra tiếp tục điều tra làm rõ và xử lý ở vụ án khác.

[8] Vật chứng thu giữ của vụ án: Đối với 0,78 gam Methamphetamine ký hiệu A2 còn lại là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu để tiêu huỷ. Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu: YAMAHA NOZZA, màu đỏ biển kiểm soát 26F1-068.49; cùng 01 Giấy chứng nhận đăng ký mô tô, xe máy số 001678 mang tên Lò Thị A dùng làm phương tiện đi mua ma túy. Quá trình điều tra xác định đây là tài sản chung hợp pháp của vợ chồng Vì Văn Kh, Lò Thị A. Khi A sử dụng xe đi mua ma túy, anh Kh không biết, chiếc xe là tài sản có giá trị duy nhất của gia đình, gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn nên cần trả lại chiếc xe máy cùng giấy đăng ký xe nói trên cho anh Kh.

[9] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy lẽ ra ngoài hình phạt tù, bị cáo còn phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015; nhưng xét thấy bị cáo là người nghiện ma túy, tài sản không có gì nên không áp dụng hình pháp bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo: Lò Thị A phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Áp dụng khoản 3 Điều 7, điểm c khoản 1 Điều 249 điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015; Xử phạt bị cáo: Lò Thị A 16 (Mười sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 22/11/2017.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

3. Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 47 BLHS năm 2015, điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu để tiêu huỷ 0,78 gam Methamphetamine ký hiệu A2 . Trả lại cho anh Vì Văn Kh 01 chiếc xe máy nhãn hiệu: YAMAHA NOZZA, màu đỏ biển kiểm soát26F1-068.49; số khung 066875, số máy 066885 cùng 01 Giấy chứng nhận đăng ký mô tô, xe máy số 001678 mang tên Lò Thị A. Các vật chứng nêu trên được mô tả theo biên bản giao, nhận vật chứng lập ngày 01/02/2018 giữa Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sốp Cộp và Công an huyện Sốp Cộp.

Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 BLTTHS năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016, buộc bị cáo Lò Thị A phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng)

Báo cho bị cáo biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án là ngày 06/3/2018.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

382
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 20/2018/HS-ST ngày 06/03/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:20/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sốp Cộp - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;