Bản án 20/2018/HNGĐ-ST ngày 08/10/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƯ PR, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 20/2018/HNGĐ-ST NGÀY 08/10/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 08 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ ý số 105/2018/TLST- HNGĐ ngày 05 tháng 6 năm 2018, về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con ” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2018/QĐXXST- HNGĐ ngày 17 tháng 9 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị D, sinh năm 1991

Địa chỉ: Đội 1, thôn Q, xã S, huyện N, tỉnh N. (Có mặt).

- Bị đơn: Anh Phạm Trung H, sinh năm 1987

Địa chỉ: Thôn N, xã I, huyện Chư Pr, tỉnh Gia Lai. (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 21 tháng 5 năm 2018 và các ời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị D trình bày:

Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị D và anh Phạm Trung H đi đến hôn nhân hoàn toàn tự nguyện; Đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã I, huyện Chư Pr, tỉnh Gia Lai, ngày: 14/9/2010. Thời gian đầu vợ chồng chị chung sống hạnh phúc được khoảng hai năm thì xảy ra mâu thuẫn, tình cảm bắt đầu rạn nứt. Nguyên nhân mâu thuẫn à do anh chị bất đồng quan điểm sống, anh H thường hay ghen tuông vô cớ, cho đến khi con chung được hơn 1 tuổi vì không thể sống chung với nhau được nữa nên chị D đã tự ý bỏ đi sống y thân với anh H cho đến nay. Hiện nay giữa anh chị không còn tình cảm, không cùng chung sống với nhau để xây dựng hạnh phúc gia đình nên chị D yêu cầu Tòa án giải quyết y hôn giữa chị và anh Phạm Trung H.

Về nuôi con: Trong thời kỳ hôn nhân, chị Nguyễn Thị D và anh Phạm Trung H có 01 (một) con chung tên là Phạm Quang H, sinh ngày 30/6/2011, hiện con chung được anh H trực tiếp nuôi dưỡng, ly hôn chị D có nguyện vọng được trực tiếp giữ nuôi con chung và không yêu cầu anh H cấp dưỡng tiền nuôi con, nếu anh H có nguyện vọng nuôi con chị đề nghị hỏi ý kiến của con, nếu con có nguyện vọng ở cùng anh H chị dồng ý. 

Về tài sản chung và các khoản nợ chung: Chị Nguyễn Thị D không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại các ời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay bị đơn anh Phạm Trung H trình bày:

Về hôn nhân: Anh Phạm Trung H và chị Nguyễn Thị D đi đến hôn nhân hoàn toàn tự nguyện; Đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã I, huyện Chư Pr, tỉnh Gia Lai ngày 14 tháng 9 năm 2010. Quá trình chung sống giữa anh chị thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân anh H cho rằng chị D Thường xuyên nhắn tin qua ại với người yêu cũ, thường tụ tập ăn chơi hát Karaoke, anh có nói thì anh và chị D xẩy ra cãi vã xúc phạm nhau, sau đó chị D tự ý bỏ đi sống y thân cho đến nay, vì thường con nhiều ần anh có khuyên chị D quay về đoàn tụ nuôi dạy con cái nhưng chị D không đồng ý, nguyện vọng của anh mong muốn vợ chồng đoàn tụ nhưng nay chị D một mực khăng khăng đòi y hôn anh chấp nhận.

Về nuôi con: Trong thời gian chung sống, anh H trình bày giữa anh và chị D có01 con chung, anh H yêu cầu Tòa án giải quyết việc nuôi con trên cơ sở tôn trọng ý kiến của con, được nuôi con anh không yêu cầu chị D phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung hàng tháng.

Về tài sản chung và các khoản nợ chung, anh H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Chư Prông tham gia phiên tòa – bà Trần Thị Nhất Linh có ý kiến phát biểu như sau:

- Về việc tuân theo pháp uật tố tụng của Thẩm phán và Hội đồng xét xử:

+ Việc tuân theo pháp uật của Thẩm phán: Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ ý vụ án đến thời điểm xét xử thấy rằng Thẩm phán đã đảm bảo thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của các đương sự, chấp hành đúng quy định tại Điều 48 Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án.

+ Việc tuân theo pháp uật của Hội đồng xét xử: Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ uật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm.

+ Thành phần Hội đồng xét xử: Các thành viên Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đều có mặt đầy đủ theo đúng thành phần được triệu tập, không có sự thay đổi thành phần của Hội đồng xét xử.

- Về việc chấp hành pháp uật của người tham gia tố tụng:

+ Đối với các đương sự:

Nguyên đơn: Từ khi thụ ý vụ án cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn đã thực hiện đúng các quy định tại Điều 70, Điều 71 của Bộ uật tố tụng dân sự.

Bị đơn: Bị đơn đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ được quy định tại Điều 70, Điều 72 của Bộ uật tố tụng dân sự.

- Thẩm phán chủ tọa phiên tòa đã thực hiện đầy đủ các nội dung được quy định tại Bộ uật tố tụng dân sự về nội quy phiên tòa.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn là chị Nguyễn Thị D, xử y hôn giữa chị Nguyễn Thị D và anh Phạm Trung H. Về con chung, đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết giao con chung là Phạm Quang H, sinh ngày 30/6/2011 cho anh H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng theo nguyện vọng của cháu. Về tài sản chung và các khoản nợ chung các đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét giải quyết. Về án phí, đề nghị nguyên đơn à chị Nguyễn Thị D phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp uật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài iệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa

và căn cứ vào kết quả tranh uận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Chị Nguyễn Thị D có đơn khởi kiện yêu cầu Toà án nhân dân huyện Chư Pr, tỉnh Gia Lai giải quyết tranh chấp về hôn nhân gia đình giữa chị và anh Phạm Trung H. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ uật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Chư Pr, tỉnh Gia Lai.

[2] Về quan hệ hôn nhân:

Trên cơ sở đơn khởi kiện, ời khai của các đương sự và các tài iệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án cũng như tại phiên tòa đã có đủ cơ sở kết uận: Chị Nguyễn Thị D và anh Phạm Trung H đi đến hôn nhân hoàn toàn tự nguyện; Đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã I, huyện Chư Pr, tỉnh Gia Lai, ngày 14 tháng 9 năm 2010. Quan hệ hôn nhân giữa chị D và anh H hoàn toàn hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng anh chị phát sinh nhiều mâu thuẫn không thể hàn gắn, hiện vợ chồng anh chị đã sống ly thân nhiều năm iền, không còn quan tâm hay chăm sóc ẫn nhau, tại các buổi hòa giải anh H mong muốn chị D quay về để vợ chồng đoàn tụ nuôi dạy con cái nên anh không đồng ý y hôn và tại phiên tòa hôm nay anh H cũng mong muốn được đoàn tụ với chị D nhưng chị D một mực khăng khăng đòi y hôn anh đồng ý. Xét thấy mâu thuẫn giữa chị D và anh H đã trở nên trầm trọng, vợ chồng anh chị không thể hàn gắn tình cảm, có tiếp tục chung sống cũng không đem ại hạnh phúc, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên chị D có nguyện vọng xin y hôn, căn cứ vào Điều 51 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu giải quyết y hôn của chị à phù hợp; căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân gia đình giải quyết y hôn giữa chị Nguyễn Thị D và anh Phạm Trung H à thỏa đáng.

[3] Về nuôi con khi ly hôn:

Trong quá trình chung sống, chị Nguyễn Thị D và anh Phạm Trung H có một con chung là Phạm Quang H, sinh ngày 30/6/2011, hiện con chung đang sống cùng anh Hiếu.

Xét nguyện vọng về việc nuôi con chung của chị D và anh H à thỏa đáng, tuy nhiên tại biên bản ấy ời khai ngày 15 tháng 8 năm 2018 (Bút ục số 28) cháu Phạm Quang H, sinh ngày 30/6/2011 có nguyện vọng được ở với bố à anh Phạm Trung H. Nguyện vọng của con chung là toàn tự nguyện và chính đáng. Kể từ thời gian chị D và anh H sống y thân, con chung sống cùng anh H và được anh H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, anh H à người có thu nhập ổn định bảo đảm cho việc nuôi con. Hơn nữa, tại bản tự khai (Bút ục số 25) anh H trình bày trường hợp anh chị y hôn, việc nuôi con chung anh tôn trọng ý kiến của con và không có tranh chấp gì vậy nên Căn cứ vào Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình xử giao cho anh Phạm Trung H được trực tiếp giữ nuôi cháu Phạm Quang H, sinh ngày 30/6/2011 là phù hợp.

Chị D có quyền và nghĩa vụ đi ại thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được cản trở việc thực hiện quyền này.

Vì llợi ích của con, theo yêu cầu của các đương sự hoặc của các cá nhân, tổ chức theo quy định tại khoản 5, Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Về việc cấp dưỡng tiền nuôi con chung, anh H không yêu cầu nên Tòa án không đặt vấn đề giải quyết.

[4] Về tài sản chung và các khoản nợ chung:

Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Tòa án không đặt vấn đề giải quyết.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm:

Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ uật tố tụng dân sự, nguyên đơn à chị Nguyễn Thị D phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong việc giải quyết tranh chấp về hôn nhân và gia đình theo quy định của pháp uật.

Vì các ẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 266 và Điều 273 của Bộ uật tố tụng dân sự; Căn cứ vào các Điều 51, 56, 81,82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình;

Xử: Chấp nhận đơn khởi kiện của chị Nguyễn Thị D.

Về hôn nhân: Xử y hôn giữa chị Nguyễn Thị D và anh Phạm Trung H.

Về nuôi con: Xử giao 01 (một) con chung là Phạm Quang H, sinh ngày 30/6/2011 (như nguyện vọng của con chung) cho anh Phạm Trung H được quyền trực tiếp chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng đến khi con chung thành niên hoặc đã thành niên nhưng bị tàn tật mất năng ực hành vi dân sự, không có có khả năng ao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của các đương sự hoặc của cá nhân, cơ quan, tổ chức theo quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình, Toà án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Trong trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Toà án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Các bên đương sự không có yêu cầu nên Tòa án không đặt vấn đề giải quyết.

Về tài sản chung và các khoản nợ chung: Các bên đương sự không yêu cầu nên Tòa án không đặt vấn đề giải quyết.

Về án phí sơ thẩm: Căn cứ vào Điều 147 Bộ uật tố tụng dân sự, nguyên đơn à chị Nguyễn Thị D phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp à 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên ai thu tiền số 0002131, ngày 05 tháng 6 năm 2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Chư , tỉnh Gia Lai. Chị Nguyễn Thị D đã nộp đủ án phí sơ thẩm.

Trong hạn 15 (mười ăm) ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, các đương sự có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai để yêu cầu xét xử phúc thẩm.

Người được thi hành án dân sự và người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

280
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 20/2018/HNGĐ-ST ngày 08/10/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:20/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chư Prông - Gia Lai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;