Bản án 20/2018/HNGĐ-ST ngày 08/05/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 20/2018/HNGĐ-ST NGÀY 08/05/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 08 tháng 5 năm 2018, tại trụ sở, Toà án nhân dân huyện A xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 406/2017/TLST-HNGĐ ngày 8 tháng 12 năm 2017 về ly hôn, tranh chấp nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số m15/2017/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 4 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 09/2018/QĐST-HNGĐ ngày 20 tháng 4 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Bùi Thị T; nơi cư trú: Thôn C, xã A, huyện A, thành phố mHải Phòng; có mặt.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn D; nơi cư trú: Thôn C, xã A, huyện A, thành phố mHải Phòng; vắng mặt lần hai không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong Đơn xin ly hôn và quá trình tố tụng nguyên đơn là chị Bùi Thị T trình bày: Chị và anh Nguyễn Văn D kết hôn trên cơ sở hai bên đều tự nguyện có Đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng. Sau khi kết hôn vợ chồng chị sống tại gia đình anh D ở thôn C, xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc được đến năm 2008 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng về quan điểm sống, cuộc sống vợ chồng thường xuyên xảy ra va chạm bất hòa căng thẳng, không có hạnh phúc. Do mâu thuẫn nên nhiều lần anh D đánh đập chị, chị đã phải nhờ chính quyền can thiệp giải quyết. Mâu thuẫn vợ chồng đã được hai bên gia đình giúp đỡ hòa giải nhưng không có kết quả. Do mâu thuẫn căng thẳng nên hai bên đã sống ly thân từ năm 2016 đến nay, hiện chị và anh D không còn quan tâm và trách nhiệm với nhau nữa. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, không thể chung sống đoàn tụ với nhau, mục đích hôn nhân không đạt được, hôn nhân không có hạnh phúc nên chị đề nghị Toà án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Văn D.

Về con chung: Chị và anh Nguyễn Văn D có 02 con chung là Nguyễn Văn T, sinh ngày 27 tháng 4 năm 2005 và Nguyễn Thị Tường V, sinh ngày 17 tháng 10 năm 2008. Ly hôn chị có nguyện vọng đề nghị Tòa án giao cho chị nuôi con chung Nguyễn Văn T còn để anh D nuôi con chung Nguyễn Thị Tường V sau ly hôn. Không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con chung cho bên nào.

Về tài sản chung: Chị và anh Nguyễn Văn D không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh Nguyễn Văn D vắng mặt tại phiên tòa, tại biên bản lấy lời khai và biên bản hòa giải anh D trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh D xác định lời trình bày của chị T về thời gian, điều kiện kết hôn và quá trình chung sống của vợ chồng là đầy đủ, chính xác. Chị T đã bỏ nhà đi hai năm nay, hai bên sống ly thân, cuộc sống vợ chồng không có hạnh phúc. Bản thân anh đã tìm nhiều cách khắc phục mâu thuẫn nhưng hai bên không khắc phục được mà ngày càng căng thẳng hơn. Nay chị T xin ly hôn anh không đồng ý vì anh vẫn còn tình cảm với chị T và hai bên còn có con chung nên đề nghị Tòa án hòa giải giúp đỡ anh và chị T đoàn tụ vợ chồng.

APN: m-wap.0010 IMSI: 452019915933589 MSISDN: 84899306751 IP: 10.239.36.24

Về con chung: Anh và chị Bùi Thị T có hai con chung Nguyễn Văn T, sinh ngày 27 tháng 4 năm 2005 và Nguyễn Thị Tường V, sinh ngày 17 tháng 10 năm 2008. Nếu Tòa án giải quyết cho chị T được ly hôn với anh về việc nuôi dưỡng con chung do các con chung tự quyết định.

Về tài sản chung: Anh và chị Bùi Thị T trong quá trình chung sống không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc chấp hành pháp luật tố tụng dân sự của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng. Quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đối với nguyên đơn và đã chấp hành đúng quy định về quyền và nghĩa vụ của đương sự theo quy định tại các điều 70, 71 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn đã vi phạm các điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự. Vắng mặt tại các phiên hòa giải và tại phiên tòa không có lý do.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử : Căn cứ vào các điều 28, 70, 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Các điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 39 Bộ luật Dân sự: Xử cho chị Bùi Thị T được ly hôn anh Nguyễn Văn D. Về con chung: Giao con chung Nguyễn Văn T, sinh ngày 27 tháng 4 năm 2005 cho chị Bùi Thị T trực tiếp nuôi dưỡng, giao con chung Nguyễn Thị Tường V, sinh ngày 17 tháng 10 năm 2008 cho anh Nguyễn Văn D nuôi dưỡng sau ly hôn, không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con chung cho bên nào Thời hạn nuôi con chung tính từ ngày 09 tháng 4 năm 2018 cho đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi nếu không có sự thay đối khác theo quy định của pháp luật. Về tài sản chung: Không xem xét giải quyết. Về án phí: Chị Bùi Thị T phải nộp án phí sơ thẩm sung công quỹ Nhà nước.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Xét việc vắng mặt của bị đơn anh Nguyễn Văn D: Sau khi thụ lý vụ án, Toà án đã tiến hành các trình tự giải quyết vụ án theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Toà án đã giao Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết địn h hoãn phiên tòa cho anh D theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự song bị đơn vẫn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 2 không có lý do. Do vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bị đơn anh Nguyễn Văn D.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ vào lời khai của đương sự, căn cứ vào chứng cứ do đương sự cung cấp và các chứng cứ do Toà án thu thập đã có đủ cơ sở xác định lời khai của chị Bùi Thị T và anh Nguyễn Văn D về thời gian, điều kiện kết hôn và quá trình chung sống giữa hai bên là đúng sự thật. Mâu thuẫn vợ chồng được thể hiện ở việc trong quá trình chung sống hai bên va chạm, bất hòa, đánh cãi nhau, không có hạnh phúc và hai bên đã sống ly thân, không còn quan tâm và trách nhiệm đến nhau nữa. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không tin tưởng nhau. Mâu thuẫn của hai bên đã được gia đình can thiệp giúp đỡ nhưng không khắc phục được. Quá trình giải quyết vụ án, anh D có quan điểm không đồng ý ly hôn và đề nghị Tòa án hòa giải hai bên đoàn tụ, Tòa án đã báo anh D đến để hòa giải tìm cách khắc phục mâu thuẫn cho hai bên. Tuy nhiên, anh D vắng mặt không có lý do, không tham gia phiên hòa giải để hai bên hàn gắn đoàn tụ, tại phiên tòa tiếp tục vắng mặt. Bản thân chị T vẫn xác định chị không còn tình cảm vợ chồng với anh D, hôn nhân không có hạnh phúc và đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Nguyễn Văn D. Xét thấy tình trạng mâu thuẫn giữa chị Bùi Thị T và anh Nguyễn Văn D đã kéo dài và trở nên trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, sống ly thân, tình cảm vợ chồng không còn, do đó yêu cầu xin ly hôn của chị T với anh D là có cơ sở, cần được chấp nhận để giải phóng cho hai bên khỏi sự ràng buộc bởi quan hệ hôn nhân. Căn cứ vào các điều 51, 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 xử cho chị Bùi Thị T được ly hôn anh Nguyễn Văn D.

[3] Về con chung: Chị Bùi Thị T và anh Nguyễn Văn D có hai con chung là Nguyễn Văn T, sinh ngày 27 tháng 4 năm 2005 và Nguyễn Thị Tường V, sinh ngày 17 tháng 10 năm 2008. Quá trình giải quyết vụ án chị T có quan điểm đề nghị Tòa án giao cho chị và anh D mỗi người nuôi dưỡng một con chung sau ly hôn. Chị có nguyện vọng nuôi cháu Nguyễn Văn T còn anh D nuôi con Nguyễn Thị Tường V còn anh D có quan điểm nếu Tòa án giải quyết cho chị T được ly hôn với anh đề nghị Tòa án giải quyết theo nguyện vọng của con chung. Việc nuôi dưỡng con chung là quyền đồng thời là nghĩa vụ của cha mẹ. Căn cứ vào điều kiện nuôi dưỡng con chung, quan điểm của các đương sự, nguyện vọng của con chung. Giao con chung Nguyễn Văn T cho chị T nuôi dưỡng, anh Nguyễn Văn D trực tiếp nuôi dưỡng con chung Nguyễn Thị Tường V sau ly hôn là phù hợp. Không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con chung cho bên nào. Thời hạn nuôi con chung tính từ ngày 09 tháng 5 năm 2018 cho đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

[4] Về tài sản chung: Chị Bùi Thị T và anh Nguyễn Văn D không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết. Do vậy, Hội đồng không xem xét giải quyết, sau này hai bên có tranh chấp sẽ xem xét giải quyết bằng vụ kiện dân sự khác.

[5] Về án phí: Chị Bùi Thị T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo của các đương sự: Chị Bùi Thị T và anh Nguyễn Văn D có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, các điều 70, 143, 147, điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 39 của Bộ luật Dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình n ăm 2014;

Căn cứ vào Điều 6, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Quốc hội ban hành ngày 30 tháng 12 năm 2016.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Bùi Thị T được ly hôn anh Nguyễn Văn D.

2. Về con chung: Giao con chung Nguyễn Văn T, sinh ngày 27 tháng 4 năm 2005 cho chị Bùi Thị T nuôi dưỡng, giao con chung Nguyễn Thị Tường V, sinh ngày 17 tháng 10 năm 2008 cho anh Nguyễn Văn D tiếp nuôi dưỡng sau ly hôn. Không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con chung cho bên nào. Thời hạn nuôi con chung tính từ ngày 09 tháng 5 năm 2018 cho đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Bùi Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Nhưng được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí ly hôn đã nộp theo Biên lai thu tiền số 0007427 ngày 08 tháng 12 năm 2017 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện A, thành phố Hải Phòng. Chị Bùi Thị T đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo:

Chị Bùi Thị T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Anh Nguyễn Văn D được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

239
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 20/2018/HNGĐ-ST ngày 08/05/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:20/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Dương - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;