TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN KIẾN AN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 20/2018/HNGĐ-S NGÀY 04/09/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 04 tháng 7 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Kiến An, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm, công khai vụ án thụ lý số 93/2018/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 5 năm 2018 về việc "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con", theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 158/2018/QĐST-HNGĐ ngày 06/8/2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 581/2018/QĐST-HNGĐ ngày 20/8/2018, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Anh Vũ Văn C
Địa chỉ: Tổ K 1, phường N, quận K, thành phố Hải Phòng, có mặt.
- Bị đơn: Chị Phạm Thị Hồng V
Địa chỉ: Tổ K 1, phường N, quận K, thành phố Hải Phòng, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện ngày 10/10/2017 và quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án nguyên đơn là anh Vũ Văn C trình bày: Anh và chị Phạm Thị Hồng V kết hôn với nhau tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường N, quận K, thành phố Hải Phòng ngày 20/01/2006. Sau khi kết hôn vợ, chồng chung sống với nhau tại nhà của bố, mẹ anh. Quá trình chung sống vợ, chồng hòa thuận đến năm 2007 thì phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hợp, bất đồng về quan điểm. Vợ, chồng đã được hai bên gia đình khuyên giải nhiều lần nhưng không có kết quả và mâu thuẫn vẫn xảy ra. Do mâu thuẫn căng thẳng vợ chồng anh chị đã sống ly thân và không quan tâm đến nhau. Đến nay, mâu thuẫn đã trầm trọng kéo dài, tình cảm vợ chồng không còn, anh Vũ Văn C đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị Phạm Thị Hồng V.
Về con chung: Anh và chị Phạm Thị Hồng V có 02 con chung là Vũ Minh H, sinh ngày 08/5/2006 và Vũ Tuấn N, sinh ngày 27/11/2014. Khi ly hôn anh đồng ý để chị Phạm Thị Hồng V trực tiếp nuôi cả hai con chung đến khi các cháu đủ 18 tuổi. Anh có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi một con chung mỗi tháng 3.500.000đ; tổng cộng là 7.000.000đ đến khi các cháu đủ 18 tuổi theo quy định của pháp luật.
Về tài sản chung: Anh không yêu C Tòa án giải quyết.
Chị Phạm Thị Hồng V là bị đơn vắng mặt tại phiên tòa nhưng trong quá trình giải quyết vụ án chị trình bày như sau: Chị và anh Vũ Văn C kết hôn với nhau tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường N, quận Kiến An, thành phố Hải Phòng năm 2006. Sau khi kết hôn vợ, chồng chung sống với nhau tại nhà của bố mẹ anh C. Quá trình chung sống vợ, chồng hòa thuận đến năm thì phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hợp, bất đồng về quan điểm. Vợ, chồng đã được hai bên gia đình khuyên giải nhiều lần nhưng không có kết quả và mâu thuẫn vẫn xảy ra. Do mâu thuẫn căng thẳng vợ chồng chị đã sống ly thân và không quan tâm đến nhau. Đến nay, mâu thuẫn đã trầm trọng kéo dài, tình cảm vợ chồng không còn, không thể đoàn tụ được.
Về con chung: Chị và anh Vũ Văn C có 02 con chung là Vũ Minh H, sinh ngày 08/5/2006 và Vũ Tuấn N, sinh ngày 27/11/2014. Khi ly hôn chị nhận trực tiếp nuôi cả hai con chung đến khi các cháu đủ 18 tuổi và yêu C anh Vũ Văn C có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi mỗi con chung mỗi tháng 3.500.000đ, tổng cộng là 7.000.000đ đến khi các cháu đủ 18 tuổi theo quy định của pháp luật.
Về tài sản chung: Chị không yêu C Tòa án giải quyết tuy nhiên với tư cách là người làm cha, chị yêu C anh Vũ Văn C có trách nhiệm lo cho các con chị có nhà cửa để ở và ăn học.
Ý kiến phát biểu của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Kiến An, thành phố Hải Phòng: Quá trình tiến hành tố tụng của Tòa án từ khi thụ lý vụ án cho đến trước khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu C khởi kiện của nguyên đơn giải quyết cho anh Vũ Văn C được ly hôn với chị Phạm Thị Hồng V. Về con chung: Chấp nhận sự thỏa thuận của anh C, chị V, giao con chung là Vũ Minh H và Vũ Tuấn N cho chị Phạm Thị Hồng V trực tiếp nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi, anh Vũ Văn C có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cả hai con chung mỗi tháng 7.000.000đ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Anh Vũ Văn C và chị Phạm Thị Hồng V cùng có địa chỉ cư trú tại Tổ K, phường N, quận K, thành phố Hải Phòng. Do đó, vụ án tranh chấp về Hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Kiến An, thành phố Hải Phòng theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; Điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về việc xét xử vắng mặt bị đơn là chị Phạm Thị Hồng V: Chị Phạm Thị Hồng V đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt lần thứ hai không có lý do, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị Phạm Thị Hồng V.
[3] Anh Vũ Văn C và chị Phạm Thị Hồng V kết hôn với nhau tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Ngọc Sơn, quận Kiến An, TP.Hải Phòng ngày 20 tháng 01 năm 2006, đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ. Anh C, chị V đều thừa nhận mâu thuẫn vợ, chồng đã phát sinh do tính tình không hợp, bất đồng về quan điểm. Do mâu thuẫn căng thẳng, tuy sống trong một nhà nhưng vợ, chồng sống ly thân và không quan tâm đến nhau. Xét thấy mâu thuẫn giữa anh Vũ Văn C và chị Phạm Thị Hồng V đã trầm trọng kéo dài, đời sống chung thực tế đã không tồn tại, mục đích hôn nhân không đạt được, nên yêu C xin ly hôn của anh Vũ Văn C là có căn cứ, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình nên được chấp nhận.
[4] Về con chung anh Vũ Văn C và chị Phạm Thị Hồng V có 02 con chung là Vũ Minh H, sinh ngày 08 tháng 5 năm 2006 và Vũ Tuấn N, sinh ngày 27 tháng 11 năm 2014. Anh Vũ Văn C và chị Phạm Thị Hồng V đều có ý kiến để chị V trực tiếp nuôi cả hai con chung đến khi các cháu đủ 18 tuổi. Anh Vũ Văn C có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi mỗi con chung mỗi tháng 3.500.000đ, tổng cộng là 7.000.000đ (Bẩy triệu đồng) đến khi các cháu đủ 18 tuổi cho đến khi có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Yêu C này của các đương sự phù hợp pháp luật, phù hợp với ý kiến của cháu Vũ Minh Hiếu nên được chấp nhận.
[5] Về tài sản chung: Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã giải thích cho các đương sự về quyền yêu C chia tài sản chung của vợ chồng nhưng anh Vũ Văn C không yêu C chia tài sản chung của vợ chồng; chị Phạm Thị Hồng V là bị đơn không yêu C Tòa án giải quyết về tài sản, nhưng chị yêu C anh C cần có trách nhiệm đối với các con, để các con có điều kiện về nhà ở, sinh hoạt để các cháu đỡ thiệt thòi. Do các đương sự không yêu C Tòa án giải quyết về tài sản chung nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết. Nếu anh Vũ Văn C và chị Phạm Thị Hồng V có đề nghị Tòa án giải quyết việc phân chia tài sản chung của vợ chồng thì sẽ được Tòa án xem xét, giải quyết bằng vụ kiện dân sự khác theo quy định của pháp luật.
[6] Về án phí: Anh Vũ Văn C phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm và án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 233, Điều 273 và Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án,
Tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa anh Vũ Văn C và chị Phạm Thị Hồng V.
2. Về con chung: Giao cho chị Phạm Thị Hồng V trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung là Vũ Minh H, sinh ngày 08 tháng 5 năm 2006 và Vũ Tuấn N, sinh ngày 27 tháng 11 năm 2014 đến khi đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Anh Vũ Văn C có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi một con chung mỗi tháng 3.500.000đ, tổng cộng 7.000.000đ cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu C thi hành án cho đến khi thi hành án xong khoản tiền cấp dưỡng nuôi con thì hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
3. Về tài sản chung: Anh Vũ Văn C và chị Phạm Thị Hồng V không yêu C Tòa án giải quyết.
4. Về án phí: Anh Vũ Văn C phải chịu 300.000 đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí ly hôn sơ thẩm và 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí cấp dưỡng nuôi con chung.
5. Về quyền kháng cáo: Anh Vũ Văn C có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, chị Phạm Thị Hồng V có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu C thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiên theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 20/2018/HNGĐ-ST ngày 04/09/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 20/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Kiến An - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 04/09/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về