TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C, TỈNH TRÀ VINH
BẢN ÁN 20/2018/HNGĐ-ST NGÀY 02/02/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ QUYỀN NUÔI CON
Trong ngày 02 tháng 02 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Trà Vinh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 147/2017/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 12 năm 2017 về tranh chấp “Ly hôn và quyền nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 75/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 18 tháng 01 năm 2018 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Trịnh Hoàng Ngọc H1, sinh năm: 1989 (Có mặt).
Cư trú tại: a/b/c khu phố d, đường G, phường Q, thành phố H, tỉnh Đồng Nai.
- Bị đơn: Anh Phạm Ngọc H2, sinh năm: 1985 (Có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt).
Cư trú tại: ấp LT, xã HH, huyện C, tỉnh Trà Vinh.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Trong đơn khởi kiện đề ngày 21-12-2017, bản tự khai ngày 18-01-2018 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Trịnh Hoàng Ngọc H1 trình bày:
Về hôn nhân: Chị và anh Phạm Ngọc H2 đi đến hôn nhân là do tự tìm hiểu quen biết, được cha mẹ hai bên đồng ý, tiến hành lễ cưới vào ngày 02-9-2015, hôn nhân có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã HH vào ngày 27-7-2015. Nữ trang ngày cưới có đôi bông tai 01 chỉ vàng 24K, quá trình chung sống vợ chồng đã bán để tiêu dùng, nên hiện không còn. Sau ngày cưới, vợ chồng sống hạnh phúc được đến tháng 6 năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do tính tình không hợp, thường xuyên cự cải. Nên chị và anh H2 đã tự sống ly thân với nhau cho đến nay, không hàn gắn được. Do tình cảm vợ chồng không còn, nên nay chị xin được ly hôn với anh Phạm Ngọc H2.
Về con chung: Chị và anh H2 có hai người con chung sinh đôi là Phạm Minh H3, sinh ngày 20-11-2016 và Phạm Minh H4, sinh ngày 20-11-2016, hiện đang sống chung với chị. Sau khi ly hôn, chị yêu cầu được tiếp tục nuôi con, chưa đặt ra yêu cầu anh H2 cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Quá trình chung sống, chị và anh H2 không tạo lập tài sản chung, nên không đặt ra yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về nợ chung: Chị và anh H2 không nợ chung của ai, cũng không ai nợ chị và anh H2, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại phiên tòa, chị Trịnh Hoàng Ngọc H1 có mặt vẫn giữ nguyên các yêu cầu khởi kiện.
* Tại bản tự khai đề ngày 05-01-2018, bị đơn anh Phạm Ngọc H2 trình bày:
Anh và chị Trịnh Hoàng Ngọc H1 đi đến hôn nhân do tự quen biết, cha mẹ hai bên chấp nhận, tổ chức lễ cưới vào ngày 02-9-2015 và có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật. Ngày cưới cha mẹ hai bên có cho nữ trang và nay đã bán hết để sử dụng nên hiện không còn. Sau ngày cưới vợ chồng chung sống không được hạnh phúc. Từ tháng 06 năm 2017, do bất đồng quan điểm, thường xuyên cự cải, tính tình không hợp, nên anh và chị H1 đã tự sống ly thân nhau cho đến nay, không thể hàn gắn được. Nay chị H1 yêu cầu ly hôn thì anh cũng đồng ý. Về con chung là Phạm Minh H3, sinh ngày 20-11-2016 và Phạm Minh H4, sinh ngày 20-11-2016, hiện đang sống chung với chị H1, sau khi ly hôn, anh đồng ý giao con cho chị H1 tiếp tục nuôi dưỡng, anh không cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ chung: Quá trình chung sống, anh và chị H1 không có tài sản chung, cũng không có nợ chung. Anh thống nhất với các chứng cứ chị H1 đã nộp, riêng anh không cung cấp chứng cứ gì cho Tòa án.
Tại phiên tòa hôm nay, anh Phạm Ngọc H2 có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt, nên không có lời trình bày.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng, Tòa án nhân dân huyện C nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Anh Phạm Ngọc H2 là bị đơn trong vụ án, đã được Tòa án nhân dân huyện C triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa xét xử vụ án vào lúc 08 giờ 00 phút ngày 02-02-2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C, nhưng anh H2 có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt do đi làm ở xa, không xin nghỉ được. Do đó, căn cứ vào khoản 1 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh Phạm Ngọc H2 theo luật định.
[2] Về hôn nhân: Chị Trịnh Hoàng Ngọc H1 và anh Phạm Ngọc H2 xác lập quan hệ hôn nhân vào năm 2015, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã HH vào ngày 27-7-2015, nên hôn nhân giữa chị H1, anh H2 là hôn nhân hợp pháp. Sau ngày cưới, thời gian anh chị chung sống hạnh phúc được đến tháng 6 năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, tính tình không hợp, nên anh chị thường xuyên cự cải, mặc dù đã được cha mẹ hai bên khuyên giải, nhưng anh chị vẫn không thể hàn gắn. Và từ tháng 6 năm 2017 cho đến nay, anh chị đã tự sống ly thân với nhau.
[3] Tại Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình. Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau,…”, nhưng chị H1 và anh H2 đã không thực hiện được các nghĩa vụ này với nhau. Hiện tại, anh chị mỗi người mỗi việc, sống ở hai nơi khác nhau, không còn quan tâm, cũng không liên hệ để hàn gắn tình cảm vợ chồng.
[4] Tòa án đã tiến hành mời hòa gi ải vào các ngày 11 -01-2018 và 18 -01-2018, nhưng anh H2 đều vắng mặt; Tại bản tự khai ngày 05-01-2018 gửi cho Tòa án, anh H2 thể hiện ý kiến là đồng ý ly hôn với chị H1 do vợ chồng không còn cơ hội để hàn gắn lại.
[5] Từ những nhận định trên, thấy rằng đời sống chung của vợ chồng chị H1, anh H2 đang trong tình trạng mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Trịnh Hoàng Ngọc H1 là có căn cứ. Anh H2, chị H1 cùng tự nguyện ly hôn là phù hợp với quy định tại Điều 55 của Luật Hôn nhân và gia đình. Nên Tòa án chấp nhận yêu cầu, cho chị H1 được ly hôn với anh H2.
[6] Về con chung: Chị H1, anh H2 có hai người con chung tên Phạm Minh H3, sinh ngày 20-11-2016 và Phạm Minh H4, sinh ngày 20-11-2016. Trong thời gian anh H2, chị H1 sống ly thân cho đến nay thì hai người con do chị H1 trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Tại bản tự khai đề ngày 05-01-2018, anh H2 cũng đồng ý giao con cho chị H1 tiếp tục nuôi dưỡng. Nên cần xử cho chị H1 được quyền nuôi con là phù hợp. Vì chị H1 chưa đặt ra yêu cầu anh H2 cấp dưỡng nuôi con, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[7] Về tài sản chung: Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay, Tòa án đã giải thích theo quy định tại Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, nhưng chị H1 và anh H2 (thể hiện ý kiến qua bản tự khai) cùng thống nhất xác định không có tài sản chung, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
[8] Về nợ chung: Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, chị H1 và anh H2 (thể hiện ý kiến qua bản tự khai) thống nhất xác định không nợ ai, cũng không ai nợ anh chị, không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử miễn xét.
[9] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Chị Trịnh Hoàng Ngọc H1 có nghĩa vụ nộp theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 28, 35, 147, 227, 228, 266, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 51, 53, 54, 55, 57, 58, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 17 Luật phí và lệ phí; Điều 26, Điều 27, Tiểu mục 1.1 Mục 1 Phần II (Danh mục án phí) Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Trịnh Hoàng Ngọc H1
1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Trịnh Hoàng Ngọc H1 được ly hôn với anh Phạm Ngọc H2.
2. Về con chung: Giao hai người con chung tên Phạm Minh H3, sinh ngày 20-11-2016 và Phạm Minh H4, sinh ngày 20-11-2016 cho chị Trịnh Hoàng Ngọc H1 tiếp tục nuôi dưỡng.
Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Trịnh Hoàng Ngọc H1 và anh Phạm Ngọc H2 chưa đặt ra yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Cha mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
3. Về tài sản chung: Chị Trịnh Hoàng Ngọc H1 và anh Phạm Ngọc H2 thống nhất xác định không có tài sản chung, không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
4. Về nợ chung: Chị Trịnh Hoàng Ngọc H1 và anh Phạm Ngọc H2 thống nhất xác định không nợ ai, cũng không ai nợ anh chị, không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
5. Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Chị Trịnh Hoàng Ngọc H1 phải chịu 300.000 đ (Ba trăm nghìn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đ (Ba trăm nghìn đồng) chị H1 đã nộp theo Biên lai số AA/2015/0014443 ngày 21-12-2017 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện C.
Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.
Bản án 20/2018/HNGĐ-ST ngày 02/02/2018 về tranh chấp ly hôn và quyền nuôi con
Số hiệu: | 20/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cầu Kè - Trà Vinh |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 02/02/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về