Bản án 20/2017/HSST ngày 20/11/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ - TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 20/2017/HSST NGÀY 20/11/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 11 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 19/2017/HSST ngày 26/10/2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 18/2017/QĐXXST-HS ngày 08/11/2017 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lò Thị K; Tên gọi khác: Không.

Sinh năm: 1963, tại Điện Biên.

Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Bản T, xã P, huyện Đ, tỉnh Điện Biên.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không.

Trình độ học vấn: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng. Tiền án, tiền sự:  Không.

Con ông:  Lò Văn L, sinh năm 1925 và con bà Lò Thị L1, sinh năm 1925 (Đã chết).

Có chồng: Lò Văn N, sinh năm 1962 và 03 con, con lớn nhất sinh năm 1985, con nhỏ nhất sinh năm 1991.

Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/8/2017 cho đến nay. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 18 giờ ngày 22/8/2017, Lò Thị K một mình đi bộ từ nhà ở bản T, xã P, huyện Đ ra khu vực cầu PN thuộc xã P tìm mua Hêroin để sử dụng. Tại đây, K đã gặp và mua được của một người đàn ông dân tộc Thái khoảng 50 tuổi (Không rõ lai lịch) 01 gói nilon màu hồng, bên trong là lớp nilon màu trắng, mở tiếp bên trong có 03 gói Hêrôin gói bằng nilon màu trắng được hơ lửa hàn kín với giá 120.000 đồng. Sau đó, K cất giấu số ma túy vào túi quần bên phải đang mặc và đi về nhà. Hồi 20 giờ 30 phút ngày 22/8/2017, khi Lò Thị K đang ở nhà thì bị tổ công tác Công an huyện Đ phối hợp với Công an xã P phát hiện bắt quả tang, thu giữ lại túi quần bên phải K đang mặc 01 gói nilon màu hồng, bên trong là lớp nilon màu trắng, mở tiếp bên trong có 03 gói được gói bằng nilon màu trắng được hơ lửa hàn kín, mở bên trong đều có chứa các cục bột màu trắng nghi là Hêrôin. Tổ công tác đã lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng.

Ngày 22/8/2017, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ đã tiến hành mở niêm phong, xác định khối lượng đối với số vật chứng thu giữ của Lò Thị K có khối lượng là 0,28 gam, trích 0,08 gam là mẫu giám định.

Tại bản kết luận giám định số 717/GĐ-PC54 ngày 05 tháng 9 năm 2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: Mẫu chất bột màu trắng thu giữ của Lò Thị K gửi giám định là Hêrôin.

Tại phiên toà, trong lời luận tội đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Lò Thị K về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy"; đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999; khoản 3 Điều 7, điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015; Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội: Xử phạt bị cáo Lò Thị K từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 0,28 gam Hêrôin đã trích mẫu 0,08 gam không hoàn lại sau giám định là vật chứng của vụ án.

Án phí: Căn cứ Điều 99 Bộ luật Tố tụng Hình sự ; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14. Miễn toàn bộ tiền án phí hình sự sơ thẩm đối với Lò Thị K.

Bị cáo nhất trí nội dung Cáo trạng; lời luận tội của đại diện Viên kiểm sát; bị cáo không tranh luận, không có ý lời bào chữa cho hành vi phạm tội của mình; lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Tại phiên tòa, bị cáo Lò Thị K khai nhận: Do bản thân nghiện, sử dụng ma túy nên hồi 20 giờ 30 phút ngày 22/8/2017, tại bản T, xã P, huyện Đ. Lò Thị K đã cất giấu trái phép 0,28 gam Hêrôin trên người, mục đích để sử dụng. Lời khai của bị cáo phù hợp với các bản cung của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản niêm phong, mở niêm phong xác định trọng lượng vật chứng, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, đúng với nội dung Cáo trạng; với hành vi cất giấu trái phép khối lượng ma túy nêu trên, bị cáo đã phạm vào tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy", tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, do vậy buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm về hành vi do bản thân đã gây ra.

[2]. Xét tính chất mức độ và hậu quả của tội phạm là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền của nhà nước trong lĩnh vực quản lý và sử dụng các chất ma túy, làm gia tăng người nghiện ma túy trong xã hội và tiếp tay cho các loại tội phạm, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an trên địa bàn, cần được phát hiện kịp thời và áp dụng hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội bị cáo đã gây ra nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo đồng thời răn đe, phòng ngừa tội phạm chung trên địa bàn.

[3]. Xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có nhân thân xấu, cụ thể: Năm 2001, bị Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu xử phạt 6 năm tù về tội "Mua bán trái phép chất ma túy", nhưng được hoãn thi hành án do mắc bệnh hiểm nghèo; năm 2003, bị Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên xử phạt 8 năm tù về tội "Mua bán trái phép chất ma túy". Tổng hợp hình phạt của hai bản án là 14 năm tù, đến ngày 17/5/2012, chấp hành hình phạt trở về địa phương, đã được xóa án tích; sử dụng ma túy từ đầu năm 2017 cho đến nay; ngày 22/8/2017, tiếp tục có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy, bị Công an huyện Đ bắt quả tang. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, Lò Thị K đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ "Thành khẩn khai báo", quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999; điều luật và hình phạt về tội tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999, có khung hình phạt từ 02 năm đến 07 năm tù, tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 có khung hình phạt từ 01 đến 05 năm tù . HĐXX áp dụng các quy định có lợi cho người phạm tội quy định tại khoản 3 Điều 7, điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 và Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội đối với bị cáo.

[4]. Về hình phạt bổ sung; vật chứng; án phí và các vấn đề khác trong vụ án: Hình phạt bổ sung: Bị cáo là người nghiện ma túy; ngoài thu nhập chủ yếu từ làm ruộng, không còn thu nhập ổn định khác, không có tài sản riêng có giá trị nên không có khả năng thi hành hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 194 Bộ luật Hình sự, vì vậy không áp dụng.

Vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 0,28 gam Hêrôin đã trích mẫu 0,08 gam không hoàn lại sau giám định, loại Nhà nước cấm lưu hành.

Án phí: Bị cáo thuộc đối tượng cá nhân thuộc hộ nghèo có giấy chứng nhận hộ nghèo số 174/UBND-GN; căn cứ Điều 99 Bộ luật Tố tụng Hình sự ; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14. Miễn toàn bộ tiền án phí hình sự sơ thẩm đối với Lò Thị K.

Nguồn gốc số Hêrôin thu giữ của Lò Thị K, K khai mua của một người đàn ông dân tộc Thái không rõ lai lịch nên không có cơ sơ xem xét, giải quyết.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999; khoản 3 Điều 7; điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 và Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội;

Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng Hình sự;

Căn cứ Điều 99 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

1. Tuyên bố: Bị cáo Lò Thị K phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

2. Xử phạt bị cáo Lò Thị K 02 (Hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 22/8/2017.

3. Vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 0,28 gam Hêrôin đã trích mẫu 0,08 gam không hoàn lại sau giám định. Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ, tỉnh Điện Biên đang quản lý theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 27/10/2017.

4. Án phí: Miễn toàn bộ tiền án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

328
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 20/2017/HSST ngày 20/11/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:20/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;