Bản án 20/2017/HSST ngày 08/12/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUẦN GIÁO, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 20/2017/HSST NGÀY 08/12/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 12 năm 2017 tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã P, huyện T xét xử sơ thẩm công khai lưu động vụ án hình sự thụ lý số: 19/2017/HSST ngày 08 tháng 11 năm 2017 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Bạc Cầm C; tên gọi khác: Không; sinh ngày 03/5/1982.

Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở hiện nay: Bản P, xã P, huyện T, tỉnh Điện Biên.

Dân tộc: Thái; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Nông nghiệp; trình độ văn hóa: Lớp 9/12. Con ông: Bạc Cầm Th, sinh năm: 1964.

Con bà: Lường Thị S, sinh năm: 1963.

Bị cáo có vợ: Lường Thị P, sinh năm: 1982 và có 03 người con, con lớn nhất sinh năm 2000, con nhỏ nhất sinh năm 2010.

Tiền sự: Không; tiền án: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 02/10/2017 và tạm giam từ ngày 05/10/2017 cho đến nay. Bị cáo được trích xuất áp giải có mặt tại phiên tòa.

* Người bào chữa cho bị cáo Bạc Cầm C: Ông Lê Đình Thu, Luật sư - Công tác viên trợ giúp pháp lý, Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Điện Biên (có mặt).

2. Họ và tên: Giàng A D; tên gọi khác: Không; sinh năm: 1982.

Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở hiện nay: Bản K, xã P, huyện T, tỉnh Điện Biên. Dân tộc: Mông; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không.

Nghề nghiệp: Nông nghiệp; trình độ văn hóa: Không biết chữ.

Con ông: Giàng Sái P, (chết năm 2004); con bà: Sùng Thị L, sinh năm: 1952.

Bị cáo có vợ: Thào Thị C, sinh năm 1983 và có 06 người con, con lớn nhất sinh năm 2000, con nhỏ nhất sinh năm 2015.

Tiền sự: Không; tiền án: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 02/10/2017 và tạm giam từ ngày 05/10/2017 cho đến nay. Bị cáo được trích xuất áp giải có mặt tại phiên tòa.

NHẬN THẤY

Bị cáo Bạc Cầm C và bị cáo Giàng A D bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo truy tố về hành vi phạm tội như sau: Hồi 10 giờ 20 phút ngày 02/10/2017, tổ công tác Công an huyện Tuần Giáo làm nhiệm vụ tại bản P, xã P, huyện T. Phát hiện tại nhà Bạc Cầm C, trú tại bản P, xã P, huyện T, tỉnh Điện Biên, có nhiều đối tượng lạ mặt tụ tập nghi vấn mua bán trái phép chất ma túy. Tổ công tác đã triển khai lực lượng đến nhà Bạc Cầm C, thì có một đối tượng nam giới bỏ chạy. Tổ công tác đã kịp thời bắt giữ, đối tượng khai tên là Giàng A D, sinh năm 1982; trú tại bản K, xã P, huyện T, tỉnh Điện Biên. Qua kiểm tra người Giàng A D phát hiện thu giữ tại túi quần bên trái của D 02 gói Heroine. Qua đấu tranh D khai 02 gói Heroine trên D vừa mua của Bạc Cầm C với giá 40.000 đồng (bốn mươi nghìn đồng). Tổ công tác huyện Tuần Giáo đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ niêm phong vật chứng đối với Giàng A D. Đồng thời tổ công tác lên nhà gặp Bạc cầm C và yêu cầu C có gì liên quan đến ma túy tự giác giao nộp; Bạc Cầm C đã tự giác giao nộp cho tổ công tác 01 gói Heroine được gói trong túi nilon màu hồng. Tổ công tác huyện Tuần Giáo đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ niêm phong vật chứng đối với Bạc cầm C và tạm giữ 350.000 đồng (ba trăm năm mươi nghìn đồng).

Ngày 03/10/2017, Cơ quan cảnh sát điều tra đã tiến hành mở niêm phong xác định trọng lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong lại vật chứng 02 gói chất bột màu trắng nghi Heroine bắt quả tang thu giữ của Giàng A D; 01 gói chất bột màu trắng nghi Heroine bắt quả tang thu giữ của Bạc Cầm C. Qua cân xác định có trọng lượng 02 gói nghi Heroine thu giữ của Giàng A D là: 0,17 gam; 01 gói nghi Heroine thu giữ của Bạc Cầm C có trọng lượng là 2,96 gam. Ngày 03/10/2017, Cơ quan cảnh sát điều tra đã ra Quyết định trưng cầu giám định số: 142, 143/QĐTCGĐ. Tại bản Kết luận giám định số: 20/GĐ-PC54 ngày 22/10/2017 và Kết luận giám định số: 25/GĐ-PC54 ngày 24/10/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: Mẫu vật gửi giám định trích ra từ vật chứng thu giữ của Bạc Cầm C là chất ma túy: Loại Heroine”; Mẫu vật gửi giám định trích ra từ vật chứng thu giữ của Giàng A D là chất ma túy: Loại Heroine”.

Tại Cơ quan điều tra Giàng A D và Bạc Cầm C đã khai nhận rõ hành vi phạm tội của mình cụ thể như sau: Vào khoảng 16 giờ 00 phút ngày 01/10/2017, C mang700.000đ (bảy trăm nghìn đồng) đi bộ một mình từ bản P, xã P đến bản H, xã P để tìm mua ma túy về sử dụng và bán lẻ kiếm lời. Khi đến khu ruộng đường rẽ vào bản H, C gặp một người đàn ông dân tộc Mông, khoảng 35 tuổi, giới thiệu tên là Mùa A S, C không biết nơi ở. C hỏi S “Mày có Heroine không?”, S trả lời và hỏi “Có một tý, thích lấy bao nhiêu?”. C trả lời “Tao lấy bảy trăm nghìn đồng”, S nói “đưa tiền đây”. C lấy 700.000đ mang theo trong túi quần đang mặc ra đưa cho S, S nhận tiền và nói C chờ, khoảng 10 phút sau, thì S quay lại đưa cho C 01 gói nilon màu hồng bên trong chứa Heroine. Khi mua bán Heroine giữa C và S không cân xác định trọng lượng, việc mua bán lúc đó chỉ có C và S biết với nhau ngoài ra không có ai biết và tham gia cùng. Muađược Heroine C cất vào túi quần đi về, khi về đến gần nhà lúc đó khoảng 16 giờ 50 phút. C định mang Heroine ra suối gần nhà để sử dụng, thì gặp Giàng A D nhà ở bản K, xã P, huyện T. D hỏi C “Có Heroine không?” và đồng thời đưa tờ tiền mệnh giá 50.000đ (năm mươi nghìn đồng) cho C nhưng C không cầm. C nói với D “Đi ra suối đã đi”. C và D cùng ra khu vực suối, đến nơi C lấy gói Heroine vừa mua được ra dùng tay cấu lấy một ít rồi cùng với D sử dụng bằng hình thức hít. Phần Heroine còn lại C gói lại và cất vào túi quần; khi hít xong Heroine, D đưa cho C 50.000đ (năm mươi nghìn đồng), sau đó D và C đi về nhà. Đến khoảng 10 giờ 00 phút ngày 02/10/2017, khi C đang ở nhà thì có hai người đàn ông tên là Th, T, C không biết họ là gì, đều trú tại bản K, xã P đến nhà hỏi mua Heroine nhưng C không bán. Sau khi Th, T đi về, C lấy Heroine ra định sử dụng thì D lại đến nhà C. Khi D đến nhà C, D gặp Th và T người cùng bản K đi từ cổng nhà C ra; việc Th và T đến nhà C làm gì D không biết. D lên nhà C thì thấy C đang ngồi ở trên nhà. D hỏi C “Anh C ơi, anh còn Heroine bán không?”. C trả lời “Anh còn mấy gói thôi, sắp hết rồi”, D nói với C “Em còn bốn mươi nghìn đồng thôi, anh cho em thêm một ít”. C đồng ý và D đưa cho C 40.000đ (bốn mươi nghìn đồng). C cầm tiền, đi vào chỗ bàn để bếp ga trong nhà lấy Heroine và dùng tay cấu lấy 01 cục nhỏ Heroine đưa cho D. D nói “Cho em xin thêm một ít”. C lại dùng tay cấu lấy một cục nhỏ Heroine đưa thêm cho D. Khi mua bán Heroine giữa D và C điễn ra ở trên sàn nhà của C, không cân xác định trọng lượng, việc mua bán trao đổi Heroine lúc đó chỉ có C và D biết với nhau ngoài ra không có ai biết và tham gia cùng. Sau khi mua Heroine xong D định sử dụng tại nhà C nhưng C không cho sử dụng, C nói vợ C đang ở nhà. D cầm Heroine C đưa cho vào trong vỏ gói thuốc lào và để vào túi quần rồi xuống dưới gầm sàn nhà C. Khi ở dưới gầm sàn nhà C, D dùng tay cấu một ít Heroine vừa mua được của C thành 2 cục nhỏ, một cục D dùng túi nilon màu hồng gói lại, một cục D dùng túi nilon màu xanh gói lại, D cất cả 2 gói Heroine vào trong túi quần bên trái đang mặc để về nhà. Khi D chuẩn bị về nhà thì bị Tổ công tác công an huyện Tuần Giáo đến nhà C, phát hiện bắt quả tang.

Tại bản Cáo trạng số: 104/QĐ-VKS-HS ngày 07 tháng 11 năm 2017, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo đã truy tố bị cáo Bạc Cầm C về tội: Mua bán trái phép chất ma tuý theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự và bị cáo Giàng A D về tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Bạc Cầm C từ 07 năm 06 tháng tù đến 08 năm tù. Áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự; Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội; khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015 về áp dụng một số quy định có lợi cho người phạm tội. Vì tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 có khung hình phạt nhẹ hơn so với khung hình phạt của tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại Điều194 Bộ luật hình sự năm 1999, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Giàng A D từ 18 tháng đến 24 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với các bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 194 Bộ luật hình sự. Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự, Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị tịch thu tiêu hủy 02 gói niêm phong màu trắng các mép đều được dánkín, trong đó 01 gói có trọng lượng 0,12 gam Heroine và 01 gói có trọng lượng 2,86 gam Heroine. Đối với số tiền 50.000đ (năm mươi nghìn đồng) bị cáo Bạc Cầm C đã bán Heroine cho bị cáo Giàng A D vào ngày 01/10/2017 do không thu giữ được, nên đề nghị truy thu số tiền này sung quỹ Nhà. Đối với số tiền 350.000đ (ba trăm năm mươi nghìn đồng), trong đó có 40.000đ (bốn mươi nghìn đồng) là tiền bị cáo Bạc Cầm C bán Heroine cho bị cáo Giàng A D vào ngày 02/10/2017, đề nghị tịch thu số tiền này sung quỹ Nhà nước; số tiền còn lại 310.000đ (ba trăm mười nghìn đồng) do bị cáo Bạc Cầm C đi làm thuê mà có, không liên quan đến hành vi phạm tội, đề nghị trả lại cho bị cáo C. Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, đề nghị miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo Bạc Cầm C nhất trí với bản Cáo trạng, Luận tội của Viện kiểm sát xét xử bị cáo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và nhất trí với tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự. Bị cáo là người dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, được đi học hết lớp 9. Căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo hưởng mức án khởi điểm của Viện kiểm sát đã đề nghị, không áp dụng hình phạt bổ sung và trả lại cho bị cáo C số tiền 310.000đ (ba trăm mười nghìn đồng).

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của bị cáo, người bào chữa và Kiểm sát viên.

XÉT THẤY

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Bạc Cầm C và bị cáo Giàng A D đã khai và thừa nhận: Khoảng 16 giờ 00 phút ngày 01/10/2017 bị cáo Bạc Cầm C mua 01 gói Heroine với giá 700.000đ (bảy trăm nghìn đồng) của một người đàn ông dân tộc Mông (không biết tên, tuổi địa chỉ) tại khu vực bản H, xã P mục đích để sử dụng và bán lẻ. Mua được Heroine bị cáo C đã bán hai lần cho bị cáo Giàng A D như sau: Lần thứ nhất vào 16 giờ 50 phút cùng ngày 01/10/2017 bị cáo C bán cho bị cáo D 01 gói Heroine lấy 50.000đ (năm mươi nghìn đồng), bị cáo D đã sử dụng hết gói Heroine này; lần thứ hai vào khoảng 10 giờ ngày 02/10/2017 bị cáo C bán tiếp cho bị cáo D 01 cục Heroine lấy 40.000đ (bốn mươi nghìn đồng), bị cáo D tự chia cục Heroine thành 02 gói Heroine tại gầm sàn nhà bị cáo C, mục đích để sử dụng. Khi bị cáo D chuẩn bị về nhà thì bị Tổ công tác Công an huyện Tuần Giáo bắt quả tang thu giữ 02 gói Heroine trên và bị cáo C đã tự giác giao nộp số Heroine còn lại cho Công an. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với bị cáo C và bị cáo D; biên bản niêm phong vật chứng ngày 02/10/2017 đối với bị cáo C, bị cáo D; biên bản ghi lời khai và biên bản hỏi cung các bị cáo tại Cơ quan điều tra; biên bản mở niêm phong xác định trọng lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong vật chứng; kết luận giám định 2,96 gam chất bột màu trắng thu giữ của bị cáo Bạc Cầm C gửi giám định là chất ma túy: Loại Heroine và 0,17 gam chất bột màu trắng thu giữ của bị cáo Giàng A D gửi giám định là chất ma túy: Loại Heroine; do đó bị cáo C phải chịu trách nhiệm hình sự với tổng trọng lượng Heroine là 3,13 gam. Ngoài ra lời khai của các bị cáo còn phù hợp với bản cáo trạng đã truy tố đối với các bị cáo, các tài liệu và chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Trong phần tranh luận, các bị cáo hoàn toàn nhất trí với quan điểm truy tố và lời luận tội của Kiểm sát viên về phần tội danh c ng như khung hình phạt. Bị cáo C bán Heroine cho bị cáo D hai lần, trọng lượng Heroine bị cáo D tàng trữ để sử dụng là 0,17 gam. Nên Hội đồng xét xử kết luận: Bị cáo Bạc Cầm C phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự; bị cáo Giàng A D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999. Bị cáo phạm tội trước ngày bộ luật hình sự năm 2015 có hiệu lực. Tuy nhiên, theo quy định tại Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội; khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015 về áp dụng một số quy định có lợi cho người phạm tội thì tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 có khung hình phạt nhẹ hơn so với khung hình phạt của tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999. Do vậy, Hội đồng xét xử sẽ áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 để xem xét quyết định mức hình phạt cho bị cáo D.

Bởi vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo truy tố các bị cáo theo tội danh, khoản và điều nêu trên là hoàn toàn chính xác.

Xét tính chất và mức độ phạm tội thấy: Bị cáo Bạc Cầm C rất phạm tội nghiêm trọng, bị cáo Giàng A D phạm tội nghiêm trọng. Hành vi Mua bán trái phép chất ma túy và Tàng trữ trái phép chất ma túy của các bị cáo đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với chất ma tuý. Hành vi của các bị cáo nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng đến trật tự trị an và an toàn xã hội trên địa bàn huyện Tuần Giáo nói riêng và tỉnh Điện Biên nói chung. Hiện nay tệ nạn nghiện chất ma túy tại huyện Tuần Giáo đang phát triển theo chiều hướng rất xấu trong một bộ phận thanh thiếu niên, tạo sự lo lắng cho toàn huyện Tuần Giáo. Nghiện chất ma túy không chỉ gây mất trật tự an toàn xã hội, băng hoại đạo đức thế hệ trẻ mà còn lây nhiễm HIV/AIDS trong cộng đồng qua đường tiêm chích. Các bị cáo nhận thức được việc mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy là hành vi vi phạm pháp luật. Nhưng vì mục đích cá nhân, các bị cáo đã bất chấp pháp luật mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy. Do vậy hành vi của các bị cáo cần được xử lý nghiêm khắc theo quy định của pháp luật, mới có tác dụng phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh chống tội phạm.

Xét tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng và nhân thân: Tại giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử các bị cáo thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự.

Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự. Bị cáo Bạc Cầm C sinh ra và lớn lên tại xã Q, huyện T, tỉnh Điện Biên; từ nhỏ sống cùng gia đình, được học hết lớp 9, sau đó ở nhà lao động sản xuất cùng gia đình; năm 2000 kết hôn và sinh sống tại bản H, xã Q, huyện T; năm 2007 chuyển gia đình đến sinh sống tại bản P, xã P, huyện T, tỉnh Điện Biên; ngày 02/10/2017 bị Công an huyện Tuần Giáo bắt giữ và khởi tố để điều tra về hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Bị Cáo Giàng A D sinh ra và lớn lên tại xã P, huyện T, tỉnh Điện Biên; Bị cáo không được đi học, ở nhà lao động sản xuất nông nghiệp cùng gia đình; năm 1999 kết hôn; ngày 02/10/2017 bị Công an huyện Tuần Giáo bắt về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy. Cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với các bị cáo thông qua hình phạt để răn đe, giáo dục bị cáo thành người lương thiện, có ý thức tuân thủ pháp luật, đồng thời giúp bị cáo cai nghiện chất ma túy.

Ngoài hình phạt chính, lẽ ra các bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 194 Bộ luật hình sự. Xét thấy điều kiện kinh tế gia đình các bị cáo khó khăn, bản thân các bị cáo là người dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Thu nhập của bị cáo chỉ dựa vào sản xuất nông nghiệp, nên không có khả năng thi hành. Vì vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát đề nghị xử phạt bị cáo Bạc Cầm C từ 07 năm 06 tháng tù đến 08 năm tù, xử phạt bị cáo Giàng A D từ 18 tháng tù đến 24 tháng tù; không phạt bổ sung bằng tiền đối với các bị cáo. Hội đồng xét xử thấy là phù hợp với tính chất, mức độ và hành vi phạm tội của các bị cáo nên cần chấp nhận.

Xét đề nghị của người bào chữa đề nghị cho bị cáo Bạc Cầm C hưởng mức án khởi điểm của Viện kiểm sát đã đề nghị là có căn cứ, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Đối với người đàn ông có tên là Mùa A S, bị cáo Bạc Cầm C khai đã bán Heroin cho bị cáo vào ngày 01/10/2017, do bị cáo không biết địa chỉ của người này ở đâu. Cơ quan Cảnh sát điều tra không có căn cứ để điều tra xác minh làm rõ, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Vật chứng vụ án: Đối 02 gói niêm phong màu trắng các mép đều được dán kín, trong đó 01 gói có trọng lượng 0,12 gam Heroine và 01 gói có trọng lượng 2,86 gam Heroine cần tịch thu và tiêu hủy. Đối với số tiền 50.000đ (năm mười nghìn đồng) bị cáo Bạc Cầm C bán Heroine cho bị cáo Giàng A D vào ngày 01/10/2017 do không thu giữ được, nên cần truy thu số tiền này sung quỹ Nhà. Đối với số tiền 350.000đ (ba trăm năm mươi nghìn đồng), trong đó có 40.000đ (bốn mươi nghìn đồng) là tiền bị cáo Bạc Cầm C bán Heroine cho bị cáo Giàng A D vào ngày 02/10/2017, cần tịch thu số tiền này sung quỹ Nhà nước; số tiền còn lại là 310.000đ (ba trăm mười nghìn đồng) do bị cáo Bạc Cầm C đi làm thuê mà có, không liên quan đến hành vi phạm tội, cần trả lại cho bị cáo C theo quy định tại Điều 41 Bộ luật hình sự và Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự.

Án phí: Các bị cáo là người dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và gia định thuộc diện nghèo, cần căn cứ vào Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, các bị cáo được miễn nộp toàn bộ tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Bạc Cầm C phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy, bị cáo Giàng A D phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Hình phạt:

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Bạc Cầm C 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày 02/10/2017.

Áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999; khoản 3 Điều 7, điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội; xử phạt bị cáo Giàng A D 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày 02/10/2017.

3. Vật chứng: Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự, Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu và tiêu hủy 02 gói niêm phong màu trắng các mép đều được dán kín, trong đó 01 gói có trọng lượng 0,12 gam Heroine và 01 gói có trọng lượng 2,86 gam Heroine;tịch thu của bị cáo Bạc Cầm C 40.000đ (bốn mươi nghìn đồng) sung quỹ Nhà nước; trả lại cho bị cáo Bạc Cầm C 310.000đ (ba trăm mười nghìn đồng) theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 09/11/2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tuần Giáo.

Truy thu sung quỹ Nhà nước số tiền 50.000đ (năm mươi nghìn đồng) bị cáo Bạc Cầm C đã bán ma túy.

4. Án phí:

Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Miễn nộp toàn bộ tiền án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo.

Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyênán (ngày 08/12/2017).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 20/2017/HSST ngày 08/12/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:20/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuần Giáo - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;