TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHỤC HOÀ, TỈNH CAO BẰNG
BẢN ÁN 20/2017/HSST NGÀY 06/12/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 06 tháng 12 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 18/2017/HSST ngày 16/11/2017 đối với bị cáo:
- Bàn Chòi P (tên gọi khác: Hoàng Tòn S) - Sinh ngày 08/10/1990.
Nơi cư trú: Xóm ND, xã CT, huyện NB, tỉnh Cao Bằng.
Nghề nghiệp: Không nghề; Trình độ văn hoá: 03/12
Dân tộc: Dao; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không. Con ông: Hoàng Dùng K - Sinh năm 1963;
Con bà: Lý Mùi N - Sinh năm 1966.
Vợ: Bàn Mùi N - Sinh năm 1993. Con: Có 01 con sinh năm 2012. Tiền án, tiền sự: Không có. Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.
- Người bị hại: Nguyễn Thị T - Sinh năm 1971. Trú tại: xóm P, thị trấn TL, huyện PH, tỉnh Cao Bằng. Vắng mặt (có lý do).
- Người làm chứng:
1. Phạm Thị Hồng NH- Sinh năm 2002. Trú tại: xóm P, thị trấn TL, huyện PH, tỉnh Cao Bằng. Vắng mặt (có lý do). (Người đại diện hợp pháp là bà Nguyễn Thị T - Sinh năm 1971. Vắng mặt).
2. Trần Thị H - Sinh năm 1973. Trú tại: xóm P, thị trấn TL, huyện PH, tỉnh Cao Bằng. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 20 giờ ngày 06 tháng 8 năm 2017, Bàn Chòi P cùng với L (theo lời khai của P) trên đường đi về phòng trọ có vào một quán nước ở xóm P, thị trấn TL, Phục Hòa để uống rượu. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày P đứng dậy để thanh toán tiền, P đưa cho Phạm Thị Hồng NH (là con gái bà T (chủ quán)) tờ tiền có mệnh giá 50.000 đồng, trong khi số tiền phải thanh toán là 20.000 đồng. Vì không có đủ tiền để bù, nên NH vào buồng chỗ bà T đang ngủ, lấy ví tiền ra bù lại tiền cho P 30.000 đồng, khi bù tiền xong NH để ví ngay trên bàn máy vi tính, lúc đó có người khác vào mua hàng nên NH đi ra ngoài để bán hàng. P quan sát thấy NH không để ý nên đã nhanh tay cầm lấy chiếc ví đó đút vào túi quần bên phải rồi đi ra. L thấy P bước ra tưởng Pquên điện thoại nên nói với P là " Em quên điện thoại à?", P nghe được và nhìn thấy chiếc điện thoại Sam sung J3 ở trên nắp tủ lạnh, tiện tay P lấy luôn. Khi về đến phòng trọ, P lấy chiếc điện thoại vừa trộm được cài đặt về chế độ máy bay để mọi người không liên lạc được. Sau đó P mở ví tiền ra thấy nhiều tiền nhưng P không đếm mà rút lấy 1.000.000đồng và cho ví tiền, điện thoại giấu vào dưới chăn ở trên giường của P rồi đi tắm. Sau khi tắm xong, P quay về phòng trọ thì gặp hai mẹ con bà Nguyễn Thị T và Phạm Thị Hồng NH, P chủ động dẫn bà T và NH đi tìm L nhưng không thấy, lợi dụng bà T và NH không để ý nên P đã bỏ trốn nhưng không kịp về phòng lấy hành lý cùng tài sản vừa trộm cắp được. Còn bà T và NH quay lại phòng trọ của P thì gặp bà Trần Thị H (chủ nhà trọ), bà H lấy chứng minh nhân dân của P cho bà T xem thì được biết Bàn Chòi P trú tại ND, xã CT, huyện NB, tỉnh Cao Bằng. Ngày 07/8/2017, bà Nguyễn Thị T đã làm đơn trình báo yêu cầu Công an huyện Phục Hòa xem xét giải quyết. Đến ngày 09/8/2017, bà T báo cho cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng biết số tài sản mà bà báo mất trộm ngày 06/8/2017 bà đã nhận lại với vợ chồng bà H là chủ nhà trọ, gồm: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung J3, 01 ví da màu xanh ngọc và số tiền 9.100.000 đồng. Tại cơ quan điều tra, bà H cho biết số tài sản trên được tìm thấy dưới chăn trên giường ngủ của P tại phòng trọ. Căn cứ vào tính chất vụ việc Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Phục Hòa đã bàn giao lại số tài sản trên cho chủ sở hữu là bà Nguyễn Thị T để quản lý, sử dụng.
Ngày 12/9/2017, Bàn Chòi P đã đến Công an huyện Phục Hòa, Cao Bằng để đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu ở trên và nộp lại 1.000.000 đồng số tiền trộm cắp mà P đã rút lấy từ trong ví mang đi tiêu sài cá nhân.Ngày 14/9/2017, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Phục Hòa ra Quyết định trưng cầu định giá tài sản trong tố tụng hình sự. Tại bản kết luận định giá tài sản số 13/KL-ĐGTS ngày 20/9/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: Chiếc điện thoại Sam sung J3 là tài sản trong vụ trộm cắp xảy ra ngày 06/8/2017 tại xóm P, thị trấn TL, Phục Hòa, Cao Bằng có trị giá là 2.800.000 đồng. Tổng giá trị tài sản mà bị cáo Bàn Chòi P đã trộm cắp của gia đình bị hại Nguyễn Thị T là 12.900.000 đồng (Mười hai triệu chín trăm nghìn đồng).
Đối với người đàn ông tên L, theo lời khai của P chỉ biết tên còn ở đâu, họ tên đầy đủ thế nào thì P không biết nên quá trình điều tra không xác định được cụ thể là ai. Mặt khác, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được trong quá trình điều tra đã xác định được vụ án này chỉ một mình P thực hiện không liên quan gì đến người đàn ông tên L này.
Tại bản cáo trạng số: 18/KSĐT- SH ngày 12/11/2017, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phục Hoà đã truy tố Bàn Chòi P về tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại Khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự;
Tại phiên tòa:
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phục Hòa vẫn giữ nguyên cáo trạng truy tố; Sau khi đánh giá về tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo, Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử:
- Tuyên bố bị cáo Bàn Chòi P phạm tội Trộm cắp tài sản;
- Áp dụng Khoản 1 Điều 138; Điều 60; điểm b, h, p Khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự;
Xử phạt: Bị cáo Bàn Chòi P từ 06 đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 đến 18 tháng.
- Về vật chứng vụ án: Xử lý theo quy định của pháp luật.
- Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Bị cáo Bàn Chòi P đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phục Hòa đã truy tố, không có ýkiến tranh luận gì.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[ 1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Phục Hòa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phục Hòa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[ 2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo Bàn Chòi P tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, có đủ cơ sở xác định: Khoảng 21 giờ ngày 06/8/2017, lợi dụng sự sở hở của bà T và NH, Bàn Chòi P đã lén lút lấy 01 chiếc điện thoại Sam sung J3 có giá trị 2.800.000 đồng (Hai triệu tám trăm ngàn đồng) và 01 chiếc ví bên trong có 10.100.000 đồng (Mười triệu một trăm ngàn đồng), tổng trị giá tài sản là 12.900.000 đồng (Mười hai triệu chín trăm ngàn đồng) mang đi cất giấu với mục đích tiêu sài cá nhân.
Do vậy, Viện kiểm sát huyện Phục Hòa truy tố Bàn Chòi P về tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại Khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
[ 3] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật hình sự bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật, song vẫn cố tình thực hiện. Do đó, cần phải xử lý nghiêm để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.
[4] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Xét thấy trong giai đoạn điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; đã ra đầu thú và tự nguyện nộp lại cho cơ quan điều tra số tiền 1.000.000 đồng mà bị cáo đã rútlấy từ trong ví mang đi tiêu sài cá nhân để trả lại cho người bị hại. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, h, p Khoản 1; Khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự cần áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Xét thấy, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng, chưa có tiền án, tiền sự, vì vậy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà cần áp dụng Điều 60 Bộ luật hình sự để cho bị cáo được cải tạo tại địa phương cũng đủ tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.
[ 5] Về trách nhiệm dân sự: Trong đơn xin vắng mặt tại phiên tòa, bị hại Nguyễn Thị T trình bày: Số tài sản bị mất bà đã nhận lại, còn thiếu số tiền 1.000.000 đồng mà P đã đem đi sử dụng nay bà không nhận lại nữa. Ngoài ra bà T không có yêu cầu gì nên không đặt ra xem xét.
[ 6] Về vật chứng vụ án xét thấy:
- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung J3, 01 ví da màu xanh ngọc và số tiền 9.100.000 đồng: Ngay sau khi được bà Trần Thị H (chủ nhà trọ) trả lại số tài sảnnày, bà T đã báo với Công an huyện Phục Hòa. Cơ quan cảnh sát điều tra Công anhuyện Phục Hòa đã bàn giao lại số tài sản trên cho chủ sở hữu là bà T để quản lý, sử dụng là phù hợp với quy định của pháp luật.
- 01 pin điện thoại nhãn hiệu SAMSUNG đã qua sử dụng, 01 ốp lưng điện thoại dẻo màu trong suốt đã qua sử dụng là của bà Nguyễn Thị T nên cần hoàn trả cho bà T;
- Về số tiền 1.000.000 đồng (Một triệu đồng) là tiền bị cáo nộp để trả lại chongười bị hại nhưng ý kiến bà T là không nhận lại nữa, nên cần xử tịch thu sung công quỹ nhà nước.
- 01 túi cặp vải màu đen đã qua sử dụng là của bị cáo được sử dụng để đựng 01 pin điện thoại nhãn hiệu SAMSUNG, 01 ốp lưng điện thoại đã trộm cắp được nên cần xử tịch thu tiêu hủy.
[ 5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của phápluật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Bàn Chòi P phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
- Áp dụng Khoản 1 Điều 138; điểm b, h, p Khoản 1; Khoản 2 Điều 46; Điều 60 Bộ luật hình sự
- Xử phạt: Bàn Chòi P 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo Bàn Chòi P cho Ủy ban nhân dân xã CT, huyện NB, tỉnh Cao Bằng giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách của án treo.
Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.
2. Về xử lý vật chứng vụ án: Áp dụng Khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự;
- Tịch thu sung công quỹ số tiền 1.000.000 đồng (Một triệu đồng);
- Xử tịch thu tiêu hủy 01 túi cặp vải màu đen đã qua sử dụng;
- Xử trả lại cho bà Nguyễn Thị T: 01 pin điện thoại nhãn hiệu SAMSUNG đã qua sử dụng, 01 ốp lưng điện thoại dẻo màu trong suốt đã qua sử dụng. (Xác nhận số vật chứng trên Cơ quan cảnh sát điều tra đã chuyển sang Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phục Hòa, Cao Bằng tại Biên bản giao nhận vật chứng ngày 14/11/2017).
3. Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
Buộc bị cáo Bàn Chòi P phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm để sung vào công quỹ nhà nước.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ tuyên án. Người bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án.
Bản án 20/2017/HSST ngày 06/12/2017 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 20/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân - Cao Bằng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 06/12/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về