TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN THIẾT, TỈNH BÌNH THUẬN
BẢN ÁN /2019/HSST NGÀY 04/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 04 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 164/2019/TLST-HS ngày 24 tháng 10 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 203/2019/QĐXXST-HS ngày 24/10/2019 đối với bị cáo:
Đỗ Ngọc C - Tên gọi khác: Gà Bư- Sinh năm: 1984 - tại tỉnh Bình Thuận - Nơi đăng ký HKTT: thôn P K, xã H M, huyện H T N, tỉnh Bình Thuận. Chỗ ở: thôn T H, xã T L, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận.; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo:không ; Trình độ học vấn : 5/12; Nghề nghiệp: không. Con ông Đỗ Ngọc C (đã chết); Mẹ :D Thị C , sinh năm 1953;Vợ: Trần Thị H, sinh năm 1985 HKTT: Khu phố 2, phường Hưng Long, thành phố Phan Thiết; Con có 02 người son : lớn nhất sinh năm 2009 , con nhỏ nhất sinh năm 2011; Tiền sự: không.Tiền án: tại bản án số 202/2012/HSST ngày 13/12/2012, của Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết xử phạt 07 năm tù về hành vi Mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 02/02/2017, chưa được xóa án tích. Bị bắt và tạm giữ từ ngày 11/7/2019. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Phan Thiết. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 16 giờ 20 phút ngày 11/7/2019, Đỗ Ngọc C đang ở phòng trọ tại thôn Tiến Hưng, xã Tiến Lợi, thành phố Phan Thiết cùng với bốn người bạn của C gồm: Trần Đức H (tên gọi khác: Thái, sinh năm 1992, HKTT: thôn Tiến T, xã T L, thành phố Phan Thiết, Bình Thuận), Nguyễn Văn Đ (tên gọi khác là Nhí, sinh năm 1995, HKTT: thôn T T, xã T L thành phố Phan Thiết), N T (tên gọi khác là Khỉ, sinh năm 1991, HKTT: khu phố 6, phường Đ L, thành phố P T) và Lê Trần H (tên gọi khác là Lỳ, sinh năm 1993, HKTT: khu phố 1, phường P T, thành phố Phan Thiết), thì bị Phòng C sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Bình Thuận phối hợp với Công an xã Tiến Lợi tiến hành tuần tra , kiểm tra phát hiện và bắt quả tang Đỗ Ngọc C và Trần Đức H đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ các vật chứng nghi là chất ma túy gồm:
- Thu giữ của Trần Đức H:01 (một) miếng giấy bạc màu vàng, bên trong miếng giấy bạc có 01 (một) gói nylon không màu hàn kín, kích thước (01x02)cm, bên trong gói nylon có chứa chất tinh thể màu trắng. H khai nhận là ma túy đá của Huy mua để sử dụng. (được thu giữ trong túi quần bên phải, phía trước của H được niêm phong trong phong bì số 01, ký hiệu là M1 khi giám định);
Thu giữ của Đỗ Ngọc C gồm:
- 01 (một) gói nylon không màu hàn kín, kích thước (01x02)cm, bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng thu giữ trên nền gác phòng trọ của Đỗ Ngọc C (được niêm phong trong phong bì số 02, ký hiệu M2 khi giám định);
- 01 vỏ bao thuốc lá hiệu SCOTT trên tủ đựng quần áo trong phòng trọ của Đỗ Ngọc C bên trong chứa:
+ 01 (một) gói nylon không màu, có nhíp kéo một đầu, kích thước (04x07)cm, bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng (được niêm phong trong phong bì số 03, ký hiệu M3 khi giám định);
+ 01 (một) gói nylon không màu, có nhíp kéo một đầu, kích thước (04x07) cm, bên trong có chứa 07 (bảy) gói nylon có đặc điểm như sau: 01 (một) gói nylon không màu hàn kín, kích thước (1,5x04)cm, bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng; 02 (hai) gói nylon không màu hàn kín, kích thước mỗi gói (1,5x3,5)cm, bên trong mỗi gói đều có chứa chất tinh thể màu trắng; 04 (bốn) gói nylon không màu hàn kín, kích thước giống nhau (1,5x03)cm, bên trong mỗi gói đều có chứa chất tinh thể màu trắng. (được niêm phong trong phong bì số 03, ký hiệu M4 khi giám định);
(Các gói nylon chứa tinh thể màu trắng thu giữ của Đỗ Ngọc C, C khai nhận là ma túy đá của C mua để sử dụng dần)
Tại bản kết luận giám định số 621/KLGĐ-PC09 ngày 16/7/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận kết luận:
- Mẫu M1 gửi giám định có khối lượng 0,0468 gam là Methamphetamine;
- Mẫu M2 gữi giám định có khối lượng 0,1453 gam là Methamphetamine;
- Mẫu M3 gữi giám định có khối lượng 7,6818 gam là Methamphetamine;
- Mẫu M4 gữi giám định có khối lượng 2,4145 gam là Methamphetamine; (Tổng khối lượng ma túy tại các mẫu M2, M3, M4 là 10,2416 gam Methamphetamine).
Quá trình điều tra đã xác định được nguồn gốc số ma túy trên như sau:
Đối với số ma túy đá thu giữ của Đỗ Ngọc C, C khai nhận đã mua được của một thanh niên tên thường gọi là H (không rõ họ tên và địa chỉ) với giá 800.000 đồng (tám trăm ngàn) vào khoảng 08 giờ ngày 11/7/2019 tại xã Mương Mán, huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận. Sau khi mua được số ma túy trên, C mang về cất giấu trong phòng trọ nhằm mục đích sử dụng. Toàn bộ hành vi này, Trần Thị Hằng không biết.
Đối với số ma túy thu giữ của Trần Đức H, H khai mua của C vào ngày 11/7/2019 với giá 200.000 đồng tại phòng trọ của C. Tuy nhiên C không thừa nhận việc bán ma túy cho H mà chỉ cho H 01 tép ma túy để sử dụng vào ngày 11/7/2019 tại phòng trọ của mình. Ngoài lời khai của H, hiện không còn căn cứ khác chứng minh C tàng trữ số ma túy trên là nhằm mục đích mua bán.
Tại bản cáo trạng số 163/CT-VKS-HS ngày 24 tháng 10 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận đã truy tố bị cáo Đỗ Ngọc C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm g,o khoản 02 điều 249 Bộ luật Hình sự;
Ý kiến của bị cáo tại phiên tòa: Bị cáo xác định nội dung cáo trạng truy tố không oan sai và khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung cáo trạng đã truy tố.
Tại phiên tòa vị đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận:Về tội danh và hình phạt: Đại diện Viện kiểm sát đã giữ nguyên quan điểm truy tố tại cáo trạng và đề nghị hội đồng xét xử áp dụng quy định tại điểm g, o khoản 02 điều 249; điểm s khoản 01, điều 51 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Công T mức án từ 06 năm đến 07 năm tù.
Về biện pháp tư pháp: đề nghị áp dụng quy định tại điểm a khoản 01 điều 46, điểm c khoản 01 điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm c khoản 02, điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định.
Lời nói sau cùng bị cáo trình bày: Bị cáo có hoàn C khó khăn mới cưới vợ hai ngày thì bị bắt hiện vợ bị cáo đang mng thai, mong Hội đồng xem xét khoan hồng giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1]Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người tham gia tố tụng khác, không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.
[2]Về đánh giá chứng cứ, xác định tội danh của bị cáo: Xét lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai người làm chứng, phù hợp với kết quả giám định về vật chứng thu giữ là chất ma túy của Phòng kỹ thuật Hình sự của Công an tỉnh Bình Thuận và các tài liệu chứng cứ khác do cơ quan điều tra thu thập có tại hồ sơ vụ án, đủ cơ sở để kết luận:
Khoảng 16 giờ 20 phút ngày 11/7/2019, tại phòng trọ do Đỗ Ngọc C thuê để ở tại thôn Tiến H, xã T L, thành phố Phan Thiết, Cơ quan C sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Bình Thuận đã kiểm tra và phát hiện Đỗ Ngọc C cất giấu tại phòng trọ 10,2416 gam Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng cho việc nghiện ma túy của bản thân tuy nhiên chưa kịp sử dụng thì bị phát hiện thu giữ.
Với định lượng ma túy tàng trữ để sử dụng là chất Methamphetamine trên 05 gam, hành vi của Đỗ Ngọc C đã đủ yếu tố cấu thành tội” Tàng trữ trái phép chất ma túy”thuộc trường hợp quy định là tình tiết định khung hình phạt được quy định tại điểm g khoản 02, điều 249 Bộ luật Hình sự.
Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo Đỗ Ngọc C đã bị kết án về tội “Mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 194 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), là tội phạm rất nghiêm trọng với lỗi cố ý (theo bản án số 202/2012/HSST của TAND Tp. Phan Thiết), chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục phạm tội rất nghiêm trọng với lỗi cố ý; Do vậy lần phạm tội trong vụ án này bị cáo đã phạm tội thuộc tình tiết : tái phạm nguy hiểm theo quy định tại điểm a khoản 02 điều 53 Bộ luật Hình sự, được quy định là tình tiết định khung hình phạt tại điểm o khoản 02, điều 249 Bộ luật Hình sự.
Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết truy tố đối với bị cáo với tội danh và khung hình phạt như đã nêu trên là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.
Đối với Trần Đức H có hành vi tàng trữ trái phép 0,0468 gam Methamphetamine nhưng chưa bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy hoặc bị kết án về một trong các tội quy định tại Điều 248, 249, 250, 251, 252 Bộ luật Hình sự năm 2015 nên không đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015. Cơ quan C sát điều tra Công an thành phố Phan Thiết đã xử phạt hành chính, là đúng quy định pháp luật.
Trần Đức H khai nhận nguồn gốc ma túy tàng trữ là mua của Đỗ Ngọc C ngày trong ngày bị phát hiện bắt quả tang nhưng C không thừa nhận đã bán ma túy cho Huy do vậy không đử căn cứ để buộc tội đối Đỗ Ngọc C về hành vi “ Mua bán trái phép chất ma túy”
[3] Đánh giá nhân thân, tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo:
Xét Đỗ Ngọc C có nhân thân xấu đã bị xử phạt tù có thời hạn về tội Mua bán trái phép chất ma túy, nhưng lại tiếp tục thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất Methamphetamin là một trong những loại ma túy thuộc trong danh mục chất ma túy mà nhà nước nghiêm cấm mọi hành vi tàng trữ; sử dụng, vận chuyển, mua bán trái phép…vv. Với định lượng tàng trữ Methamphetamin ở mức trên 05gam và dưới 20 gam, đồng thời phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Do vậy cần thiết phải xử lý nghiêm khắc, cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để răn đe giáo dục riêng và phòng chống tội phạm ma túy nói chung.
[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Xét bị cáo đã thành khẩn khai báo, nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm Hình sự quy định tại điểm s, khoản 01, Điều 51 Bộ luật hình sự.
[5]Về biện pháp tư pháp :
Đối với chất ma túy thu giữ trong vụ án, và các bao bì đóng gói chất ma túy còn lại sau khi giám định được niêm phong trong các phong bì số 621/1, phong bì 621/2, phong bì 621/3 có chữ ký của Giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận. Đây là vật cấm lưu hành, không có giá trị sử dụng, do vậy sẽ bị tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 01 điều 46, điểm c khoản 01 điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm c khoản 02, điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự.
Đối với 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá tự chế gồm vỏ chai nước Sting, ống hút, nỏ thủy tinh; 01 cân tiểu ly màu đen đã hết pin thu giữ của Đỗ Ngọc C, không có giá trị sử dụng, do vậy sẽ bị tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 01 điều 46, Bộ luật Hình sự và điểm c khoản 02, điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự.
[6] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí sơ thẩm theo quy định tại Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Quy định về án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
*Căn cứ vào quy định tại điểm g,o khoản 02 điều 249, điểm s khoản 01 điều 51 Bộ luật hình sự.
*Tuyên bố: Bị cáo Đỗ Ngọc C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
* Xử phạt: Bị cáo Đỗ Ngọc C 06 (sáu) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 11/7/2019.
* Biện pháp tư pháp: điểm a khoản 01 điều 46, Bộ luật Hình sự và điểm c khoản 02 điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự.
- Tuyên tịch thu tiêu hủy các vật chứng hiện không có giá trị sử dụng và nhà nước cấm lưu hành gồm: chất ma túy thu giữ trong vụ án, và bao bì đóng gói còn lại sau khi giám định được niêm phong trong các phong bì số số 621/1, phong bì 621/2, phong bì 621/3 có chữ ký của Giám định viên Đoàn Thảo Nguyên và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận.
- Tuyên tịch thu tiêu hủy đối với 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá tự chế gồm vỏ chai nước Sting, ống hút, nỏ thủy tinh; 01 cân tiểu ly màu đen đã hết pin thu giữ của Đỗ Ngọc C, không có giá trị sử dụng.
(Vật chứng được bàn giao theo biên bản giao nhận vật chứng tài sản số 12 ngày 22/10/2019 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Phan Thiết)
* Về án phí: Tuyên buộc bị cáo Đỗ Ngọc C phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
Án xử sơ thẩm công khai, bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 18/10/2019).
Bản án /2019/HSST ngày 04/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | /2019/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 04/11/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về