TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 200/2023/HS-PT NGÀY 12/07/2023 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 12 tháng 7 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai Vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 144/2023/TLPT-HS ngày 04 tháng 5 năm 2023 đối với bị cáo Nguyễn Vũ Hoàng N (tên gọi khác: T), do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 18/2023/HS-ST ngày 24 tháng 3 năm 2023 của Tòa án nhân dân Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Vũ Hoàng N (tên gọi khác: T); sinh năm:
1984, tại Thành phố Hồ Chí Minh; hộ khẩu thường trú: A/2 Phạm Văn Hai, Phường 3, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh; nơi cư trú: B/14 Nguyễn Bặc, Phường 3, quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: kinh doanh tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 08/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam;
tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn L và bà Vũ Thị Đ; có vợ và 01 con sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị bắt, tạm giam ngày 01/7/2022; có mặt tại phiên tòa.
- Những người tham gia tố tụng khác có kháng cáo hoặc có liên quan đến kháng cáo: không.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào tối ngày 26/6/2022, Nguyễn Vũ Hoàng N cùng nhóm bạn gồm Lê Doãn V, Trương Trí T1, Đoàn Thị Thu T2 đi ăn uống, hát karaoke tại huyện Bình Chánh. Đến khoảng 00 giờ ngày 27/6/2022, N rủ sử dụng ma túy thì cả nhóm đồng ý. Sau đó, N gọi điện thoại cho bạn là Lê Thị Mỹ L, kêu mua ma túy để nhóm N đến căn hộ của L sử dụng ma túy và L đồng ý. L liên lạc với đối tượng chưa rõ lai lịch đặt mua 05 viên thuốc lắc và 02 chấm ma túy loại “Khay”, hẹn giao ma túy tại chung cư The Tresor - địa chỉ: 39-39B Bến Vân Đồn, Phường 13, Quận 4. Sau đó, L gọi điện thoại rủ thêm bạn là Đỗ Ngọc Thảo V1 đến chơi cùng.
Đến khoảng 01 giờ 30 phút ngày 27/6/2022, N và nhóm bạn đến chung cư The Tresor và được dẫn lên căn hộ số C.06 của L. Sau khi ăn uống xong, thì cả nhóm vào phòng ngủ của L nghe nhạc. Đến khoảng 02 giờ 20 phút cùng ngày, L nhận được điện của người bán ma túy báo cho biết đã đến và cất giấu ma túy trong 01 hộp xốp đặt tại bàn ở sảnh của chung cư. L xuống sảnh lấy hộp xốp đựng ma túy lên căn hộ mở ra xem, thì thấy bên trong có 01 gói nylon chứa ma túy “Khay” và 01 gói nylon chứa 05 viên thuốc lắc. L đổ 02 loại ma túy vào 01 dĩa sứ màu trắng rồi mang vào phòng ngủ của L, dùng bật lửa đốt ma túy “Khay”, dùng thẻ nhựa cà ma túy “Khay” rồi để trên kệ tủ cho cả nhóm sử dụng.
Đến khoảng 09 giờ ngày 27/6/2022, Công an Phường 13, Quận 4 kiểm tra hành chính căn hộ, thì cả nhóm đã sử dụng hết ma túy. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 4, tiến hành khám xét căn hộ, phát hiện thu giữ: 01 đèn chiếu có chữ MADE IN CHINA, 01 đĩa sứ tròn màu trắng có dính bột màu trắng, 01 thẻ nhựa có chữ LE THI MY L có dính bột màu trắng, 01 thẻ nhựa màu đen ghi chữ “KHÈ GROUP YEAR END PARTY” có dính bột màu trắng là dụng cụ sử dụng ma túy.
Qua xét nghiệm chất ma túy, xác định: mẫu nước tiểu của Nguyễn Vũ Hoàng N, Lê Thị Mỹ L, Lê Doãn V, Trương Trí T1, Đoàn Thị Thu T2, Đỗ Ngọc Thảo V1 dương tính với ma túy tổng hợp.
Tại Kết luận giám định số: 3774/KLGĐ-H ngày 05/7/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hồ Chí Minh, kết luận:
- Bột màu trắng dính trên đĩa tròn màu trắng là ma túy ở thể rắn, loại Ketamine, khối lượng 0,0052 gam.
- Bột màu trắng dính trên thẻ nhựa in chữ LE THI MY L tìm thấy ma túy ở dạng vết, không xác định được khối lượng, loại Katamine.
- Bột màu trắng dính trên thẻ nhựa có in chữ “KHÈ GROUP YEAR END PATY” tìm thấy ma túy ở dạng vết, không xác định được khối lượng, loại Ketamine.
Qua xác minh, căn hộ C.06 chung cư The Tresor địa chỉ: 39-39B Bến Vân Đồn, Phường 13, Quận 4 - do bà Nguyễn Thị Xuân T3 (hiện đang cư ngụ tại Australia) làm chủ sở hữu. Lê Thị Mỹ L thuê căn hộ này từ ngày 21/02/2022, thời hạn thuê là 01 năm. Bà T3 không biết việc L sử dụng ma túy tại căn hộ, nên không có căn cứ để xử lý.
Các đối tượng Trương Trí T1, Lê Doãn V, Đoàn Thị Thu T2, thừa nhận trong lúc ăn uống, Nguyễn Vũ Hoàng N rủ cả nhóm đến căn hộ của L để sử dụng ma túy. Không có ai bàn bạc về việc hùn tiền để mua ma túy sử dụng. Đỗ Ngọc Thảo V1 đến căn hộ để ăn uống và sử dụng ma túy theo lời mời từ L. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 4, đã xử lý hành chính đối với V, T1, T2 và V1.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 18/2023/HS-ST ngày 24/3/2023 của Tòa án nhân dân Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định như sau:
Tuyên bố bị cáo Lê Thị Mỹ L và bị cáo Nguyễn Vũ Hoàng N phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”;
Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; Điều 17; Điều 58; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Xử phạt bị cáo Lê Thị Mỹ L 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày 29/6/2022.
Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; Điều 17; Điều 58; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017):
Xử phạt bị cáo Nguyễn Vũ Hoàng N 07 (bảy) năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày 01/7/2022.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.
Ngày 31/3/2023, bị cáo Nguyễn Vũ Hoàng N có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Bị cáo Nguyễn Vũ Hoàng N giữ nguyên nội dung kháng cáo, xin được giảm nhẹ hình phạt.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm giải quyết vụ án như sau: căn cứ vào các tài liệu chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ, căn cứ lời khai của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm, phiên tòa phúc thẩm, có đủ cơ sở kết luận bị cáo phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự. Bị cáo có một số tình tiết giảm nhẹ nhưng đã được Tòa án cấp sơ thẩm xem xét. Mức án mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên phạt là tương xứng với tính chất mức độ vi phạm và các tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo được hưởng. Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Bị cáo Nguyễn Vũ Hoàng N không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát. Nói lời sau cùng, bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình là sai trái, xin được giảm nhẹ hình phạt để sớm về với gia đình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 31/3/2023, bị cáo Nguyễn Vũ Hoàng N có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Đơn kháng cáo của bị cáo làm trong thời hạn luật định nên được xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
[2] Sau khi Tòa án sơ thẩm xét xử, chị Phan Thị Thanh T4 (vợ của bị cáo Nguyễn Vũ Hoàng N) có đơn kháng cáo đề ngày 25/3/2023 gửi qua đường bưu điện, xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo N; bà Trần Thị G (mẹ của bị cáo Lê Thị Mỹ L) có đơn kháng cáo đề ngày 30/3/2023 gửi qua đường bưu điện, xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo L.
Nhận thấy, bà Trần Thị G và chị Phan Thị Thanh T4 không phải là người tham gia tố tụng trong vụ án và cũng không phải là người có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 331 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do vậy, Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết các đơn kháng cáo của bà G và chị T4.
[3] Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Vũ Hoàng N, kết quả tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với nội dung bản án sơ thẩm và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 02 giờ 20 phút ngày 27/6/2022, tại căn hộ số C.06 chung cư The Tresor - địa chỉ: 39-39B Bến Vân Đồn, Phường 13, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh - các bị cáo Lê Thị Mỹ L, Nguyễn Vũ Hoàng N đã có hành vi bàn bạc bố trí, sắp xếp, cung cấp ma túy, địa điểm, dụng cụ để sử dụng trái phép chất ma túy cùng với Trương Trí T1, Lê Doãn V, Đoàn Thị Thu T2 và Đỗ Ngọc Thảo V1.
[5] Với hành vi phạm tội như trên của các bị cáo Lê Thị Mỹ L, Nguyễn Vũ Hoàng N, đối chiếu với các quy định của pháp luật, có đủ cơ sở để kết luận các bị cáo đã phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm kết án bị cáo theo tội danh, điều luật như đã nêu là đúng pháp luật.
[6] Xét yêu cầu kháng cáo của bị cáo Nguyễn Vũ Hoàng N, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy:
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước về sử dụng các chất ma túy, là một trong những nguyên nhân phát sinh nhiều tệ nạn và tội phạm khác trong xã hội. Do đó, cần có hình phạt tương xứng với vai trò, tính chất, mức độ của hành vi phạm tội của bị cáo, nhằm mục đích giáo dục, răn đe và phòng ngừa cho toàn xã hội.
Một số tình tiết giảm nhẹ khác mà gia đình bị cáo giao nộp trong quá trình chuẩn bị xét xử phúc thẩm không có cơ sở để xem xét.
Mức án mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên phạt đối với bị cáo là bằng mức khởi điểm của khung hình phạt, phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, cũng như nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo. Do đó, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh.
[7] Các nội dung khác của Bản án hình sự sơ thẩm do không bị kháng cáo, kháng nghị nên có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[8] Do kháng cáo không được chấp nhận, nên bị cáo Nguyễn Vũ Hoàng N phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự,
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Vũ Hoàng N. Giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 18/2023/HS-ST ngày 24/3/2023 của Tòa án nhân dân Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh.
Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 255; Điều 17; Điều 58; điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017);
Xử phạt bị cáo Nguyễn Vũ Hoàng N 07 (bảy) năm tù, về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 01/7/2022.
2. Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015;
điểm b khoản 2 Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;
Án phí hình sự phúc thẩm bị cáo Nguyễn Vũ Hoàng N phải chịu là 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
4. Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 200/2023/HS-PT về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 200/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/07/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về