TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 199/2023/HS-PT NGÀY 20/09/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 20 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 212/2023/TLPT-HS ngày 24 tháng 8 năm 2023 đối với bị cáo Trịnh Minh P về tội “Trộm cắp tài sản”, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 11/2023/HS-ST ngày 14/7/2023 của Tòa án nhân dân huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk.
Bị cáo có kháng cáo:
Trịnh Minh P (tên gọi khác: L), sinh ngày 10/7/1986 tại tỉnh Quảng Nam. Nơi cư trú: Thôn B, xã T, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: thợ cơ khí; trình độ học vấn: 08/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trịnh Minh L1 (đã chết) và bà Hồ Thị M, sinh năm 1965; có vợ là Võ Thị N – Sinh năm 1994 (Đã chết ngày 14/9/2023) và 02 con; tiền án: Không, tiền sự: Không;
Nhân thân: Tại bản án số 18/2006/HSST ngày 11- 01- 2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Lắk đã xử phạt bị cáo 07 năm tù về tội “ Cướp tài sản”, bị cáo đã chấp hành xong hình phạt ngày 04 tháng 01 năm 2011.
Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 07/11/2022 đến ngày 30/11/2022; hiện bị cáo tại ngoại. Có mặt.
Trong vụ án này còn có bị cáo Nguyễn Hữu H, Văn quốc V có đơn kháng cáo nhưng đã rút đơn kháng cáo và Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm.
Ngoài ra, trong vụ án còn có các bị cáo Nguyễn Hữu H1, Đinh Văn Q nhưng không có kháng cáo, kháng nghị.
- Người bị hại:
+ Ông Y Đông P1, sinh năm 1969; địa chỉ: Buôn K, xã Đ, huyện L, tỉnh Đắk Lắk. Vắng mặt.
+ Anh Võ Tá T, sinh năm 1987; địa chỉ: Buôn D, xã Đ, huyện L, tỉnh Đắk Lắk. Vắng mặt.
+ Ông Phạm Ngọc Đ, sinh năm 1963; địa chỉ: Buôn Y, xã Đ, huyện L, tỉnh Đắk Lắk. Vắng mặt.
+ Anh Nông Văn L2, sinh năm 1980; địa chỉ: Buôn T, xã N, huyện L, tỉnh Đắk Lắk. Vắng mặt.
+ Chị H Gro Rơ Y, sinh năm 1982; địa chỉ: Buôn Y, xã Đ, huyện L, tỉnh Đắk Lắk. Vắng mặt.
+ Chị Võ Thị C, sinh năm 1985; địa chỉ: Tổ dân phố C, thị trấn L, huyện L, tỉnh Đắk Lắk. Vắng mặt.
+ Anh Nguyễn Đức D, sinh năm 1986; địa chỉ: Thôn Đ, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt.
+ Ông Y Phơi Ô, sinh năm 1969; địa chỉ: Buôn K, xã Đ, huyện L, tỉnh Đắk Lắk. Vắng mặt.
+ Ông Nguyễn Kim H2, sinh năm 1972; địa chỉ: Thôn Y, xã Đ, huyện L, tỉnh Đắk Lắk. Vắng mặt.
+ Ông Đinh Chiến T1, sinh năm 1961; địa chỉ: Buôn Đ, xã K, huyện L, tỉnh Đắk Lắk. Vắng mặt.
+ Anh Hoàng Văn N1, sinh năm 1972; địa chỉ: Buôn T, xã N, huyện L, tỉnh Đắk Lắk. Vắng mặt.
+ Anh Phan Văn T2, sinh năm 1990; địa chỉ: Buôn D, xã Đ, huyện L, tỉnh Đắk Lắk. Vắng mặt.
+ Ông Y Tring P2, sinh năm 1962; địa chỉ: Buôn T, xã Đ, huyện L, tỉnh Đắk Lắk. Vắng mặt.
+ Ông Vũ Văn T3, sinh năm 1966; địa chỉ: Thôn A, xã R, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt.
+ Anh Đinh Văn L3, sinh năm 1988; địa chỉ: Thôn D, xã R, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt.
+ Anh Nguyễn Huy T4, sinh năm 1989; địa chỉ: Thôn A, xã R, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Chị Đinh Thị L4, sinh năm 1978; địa chỉ: Thôn B, xã Y, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Vắng mặt.
+ Chị Nguyễn Thị H3, sinh năm 2000; địa chỉ: Thôn B, xã Y, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Vắng mặt.
+ Chị Nguyễn Thị H3 (M1), sinh năm 2003; địa chỉ: Thôn B, xã Y, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Vắng mặt.
+ Chị Võ Thị N, sinh năm 1994; địa chỉ: Thôn B, xã T, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 01/11/2022, Trịnh Minh P rủ Văn Quốc V1 đi bắt trộm chó dọc quốc lộ B để bán cho Nguyễn Hữu H, là người mua bán chó thì V1 đồng ý. V1 chuẩn bị bao tải, cần câu có bộ phận kích điện, dây thòng lọng. P điện thoại báo cho H biết chuẩn bị rọ để nhốt chó. Do đã hứa hẹn từ trước nên H nói với con trai là Nguyễn Hữu H1 và cháu là Đinh Văn Q điều khiển xe ôtô tải biển kiểm soát 47C-244.X mang theo rọ trong thùng xe tải, đứng phía sau đợi khi nào P, V1 bắt được từ 3 đến 4 con chó thì P gọi cho H1 và Q đến điểm hẹn bỏ vào rọ sắt cất giấu trên thùng xe tải. Khoảng 23 giờ 00 phút cùng ngày, P sử dụng xe môtô biển kiểm soát 47N1- 089.X chở V1 ngồi sau xe và mang theo dây thòng lọng có gắn bộ kích điện, bao tải đi trên đường Q (từ khu vực thị trấn L đến xã Đ, xã N, xã K, huyện L và xã Đ, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng), thấy con chó nào của người dân thả rông ngoài đường thì P điều khiển xe đến gần để V1 dùng cây thòng lọng có gắn bộ kích điện bắt chó bỏ vào bao. P và V1 đi đến khu vực tổ dân phố C, thị trấn L bắt của gia đình chị Võ Thị C 01 con chó đực, nặng khoảng 16kg; chị H Gro R, trú tại thôn Y, xã Đ, huyện L 01 con chó đực, nặng khoảng 10kg; ông Phạm Ngọc Đ, trú tại thôn Y, xã Đ, huyện L 01 con chó cái, nặng khoảng 14kg; ông Y Tring P3, trú tại buôn T, xã Đ, huyện L 01 con chó cái, nặng khoảng 10kg; anh Nguyễn Kim H2, trú tại thôn Y, xã Đ, huyện L 01 con chó cái, nặng khoảng 12kg; ông Y Đông P1, trú tại buôn K, xã Đ, huyện L 01 con chó cái, nặng khoảng 12kg; ông Y Phơi Ô, trú tại buôn K, xã Đ, huyện L 01 con chó đực, nặng khoảng 17kg; anh Phan Văn T2, trú tại buôn D, xã Đ, huyện L 01 con chó đực, nặng khoảng 17kg; anh Võ Tá T, trú tại buôn D, xã Đ, huyện L 01 con chó cái, nặng khoảng 14kg; anh Nông Văn L2, trú tại buôn T, xã N, huyện L 01 con chó đực, nặng khoảng 16kg; anh Hoàng Văn N1, trú tại buôn T, xã N, huyện L 01 con chó cái, nặng khoảng 10kg; ông Đinh Chiến T1, trú tại buôn Đ, xã K, huyện L 01 con chó cái, nặng khoảng 11kg; anh Nguyễn Đức D, trú thôn Đ, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng 01 con chó đực, nặng khoảng 17kg; ông Vũ Văn T3, trú tại thôn A, xã R, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng 01 con chó đực, nặng khoảng 20kg; anh Nguyễn Huy T4, trú tại thôn A, xã R, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng 01 con chó cái, nặng khoảng 15kg; anh Đinh Văn L3, trú tại thôn D, xã R, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng 02 con chó. P và V1 bắt trộm chó đến khoảng 02 giờ ngày 02/11/2022 được 28 con chó (12 con không xác định được chủ sở hữu), bỏ vào lồng sắt trên thùng xe tải để H1 và Q chở về nhà Nguyễn Hữu H. Trên đường vận chuyển về đến khu vực buôn P, xã Đ, huyện L, tỉnh Đắk Lắk thì bị tổ công tác thuộc Phòng C1 Công an tỉnh Đ phát hiện, H1 và Q để xe lại bỏ chạy, P và V1 bỏ chạy đến khu vực xã N, huyện L vứt bỏ cần câu có bộ phận kích điện và dây thòng lọng bên đường. Ngày 02/11/2022 và ngày 04/11/2022 H, H1, Q, P và V1 đến Cơ quan điều tra Công an huyện L tự thú. Tang vật thu giữ gồm: 28 con chó; 01 xe ôtô tải biển kiểm soát 47C-244.X; 03 rọ bằng kim loại; 01 xe môtô biển kiểm soát 47N1-089.X và 04 điện thoại di động.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số: 16/KL-HĐĐGTS ngày 03/11/2022 của Hội đồng định giá tài sản huyện L kết luận giá trị của 28 cá thể chó với tổng khối lượng 394kg thời điểm bị trộm ngày 02/11/2022 là 23.640.000 đồng.
Quá trình điều tra, Trịnh Minh P, Văn Quốc V1 khai nhận với phương pháp và thủ đoạn nêu trên đã thực hiện 03 lần trộm cắp cùng với Nguyễn Hữu H, Nguyễn Hữu H1 và Đinh Văn Q, cụ thể như sau:
Lần thứ nhất: Giữa tháng 10/2022, P và V1 đã trộm cắp được 14 con chó của các hộ dân (không xác định được chủ sở hữu) tại khu vực xã K, huyện L. H1 và Q vận chuyển bằng xe ôtô tải biển kiểm soát 47C-244.X về nhà Nguyễn Hữu H cân được khoảng 130kg, bán với giá từ khoảng 40.000 đồng đến 50.000 đồng/kg, do chó chết nhiều nên H trả cho P và V1 số tiền là 5.000.000 đồng. P và V1 chia nhau mỗi người 2.500.000 đồng. H bán lại cho người đi đường để kiếm lời với số tiền 2.000.000 đồng.
Lần thứ hai: Sau vụ thứ nhất khoảng 01 tuần, P và V1 trộm cắp được 03 con chó của các hộ dân (không xác định được chủ sở hữu) tại khu vực đèo Đ, huyện L. H1 và Q vận chuyển bằng xe ôtô tải biển kiểm soát 47C-244.X về nhà Nguyễn Hữu H cân được khoảng 40kg, bán với giá từ khoảng 40.000 đồng đến 50.000 đồng/kg, do 02 con chó bị chết nên H trả cho P và V1 số tiền 1.400.000 đồng. P và V1 chia nhau mỗi người 700.000 đồng. H bán lại cho người đi đường để kiếm lời với số tiền 800.000 đồng.
Lần thứ ba: Khoảng cuối tháng 10/2022, P liên lạc với H1, thì H1 nói đang về quê nên P liên lạc với H để rủ đi trộm cắp chó, H đồng ý và tự điều khiển xe ôtô tải đi cùng Q, P và V1 trộm cắp được 06 con chó của các hộ dân (không xác định được chủ sở hữu) tại khu vực xã Y, huyện L. H chở chó về nhà cân được khoảng 65kg, do có 03 con chó bị chết nên H trả cho P và V1 2.200.000 đồng. P và V1 chia nhau mỗi người 1.100.000 đồng. H bán lại cho người đi đường để kiếm lời với số tiền 1.400.000 đồng.
Trong quá trình điều tra Nguyễn Hữu H khai nhận mỗi lần Q đi cùng tham gia trộm cắp, H hứa trả cho Q số tiền 200.000 đồng/một lần, nhưng H chưa trả cho Q.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số: 04/KL-HĐĐGTS ngày 19/01/2023, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng huyện L kết luận: Giá trị 14 cá thể chó với tổng khối lượng khoảng 130kg tại thời điểm tháng 10/2022 là 7.800.000 đồng. Giá trị 03 cá thể chó với tổng khối lượng khoảng 40kg tại thời điểm tháng 10/2022 là 2.400.000 đồng. Giá trị 06 cá thể chó với tổng khối lượng khoảng 65kg tại thời điểm tháng 10/2022 là 3.900.000 đồng. Tổng giá trị tài sản là 14.100.000 đồng.
Về vật chứng của vụ án: Cơ quan điều tra thu giữ các vật chứng, gồm:
- 28 cá thể chó đã thu giữ. Quá trình điều tra xác định và trả lại chủ sở hữu của 16 cá thể chó. Đối với 12 cá thể chó đã chết không xác định được chủ sở hữu, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành tiêu hủy theo quy định.
tội.
- 03 rọ bằng kim loại, là công cụ các bị cáo dùng để thực hiện hành vi phạm - 01 xe ôtô tải biển kiểm soát 47C-244.X, là phương tiện các bị cáo dùng để thực hiện hành vi phạm tội.
- 01 xe môtô biển kiểm soát 47N1-089.X, là phương tiện Trịnh Minh P dùng để thực hiện hành vi phạm tội.
- 04 điện thoại di động là phương tiện mà các bị cáo sử dụng để liên lạc trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội.
- Đối với 01 cần câu có bộ phận kích điện và dây thòng lọng là công cụ Văn Quốc V1 sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội, do hoảng sợ nên trong lúc chạy trốn V1 đã vứt tại khu vực xã N, không xác định được vị trí cụ thể. Cơ quan điều tra đã tổ chức truy tìm nhưng không thu giữ được nên không đề cập xử lý.
- Số tiền 12.800.000 đồng là số tiền thu lợi bất chính từ hành vi phạm tội do Nguyễn Hữu H, Trịnh Minh P và Văn Quốc V1 đã giao nộp cho Cơ quan Cảnh sát điều tra.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 11/2023/HS-ST ngày 14/7/2023 của Tòa án nhân dân huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:
- Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, h, r, s khoản 1, 2 Điều 51, điểm g, o khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu H 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo tính từ ngày bắt thi hành án. Bị cáo được khấu trừ thời gian bị cáo bị tạm giam trước từ ngày 04/11/2022 đến ngày 30/11/2022 .
- Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, h, r, s khoản 1, 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Xử phạt bị cáo Trịnh Minh P 01 (Một) năm tù.
Xử phạt bị cáo Văn Quốc V1 09 (Chín) tháng tù.
Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo P, bị cáo V1 tính từ ngày bắt thi hành án. Các bị cáo được khấu trừ thời gian bị tạm giam trước từ ngày 07/11/2022 đến ngày 30/11/2022.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Hữu H1, Đinh Văn Q; quyết định xử lý vật chứng, trách nhiệm dân sự, án phí và quyền kháng cáo cho các bị cáo, các đương sự theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 28/7/2023, các bị cáo Nguyễn Hữu H, Trịnh Minh P, Văn Quốc V1 kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.
Ngày 19/9/2023 và ngày 20/9/2023 bị cáo Nguyễn Hữu H, bị cáo Văn Quốc V1 có đơn xin rút kháng cáo. Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với hai bị cáo Nguyễn Hữu H và Văn Quốc V1.
Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Trịnh Minh P vẫn giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung vụ án đã được tóm tắt nêu trên.
Quá trình tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đã đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và cho rằng: Trước khi mở phiên tòa phúc thẩm bị cáo Nguyễn Hữu H, bị cáo Văn Quốc V1 có đơn xin rút kháng cáo. Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với hai bị cáo Nguyễn Hữu H và Văn Quốc V1 theo quy định của pháp luật.
Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Trịnh Minh P về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo cung cấp thêm giấy chứng nhận hộ nghèo, hộ cận nghèo và trích lục khai tử của vợ là Võ Thị N. Tuy nhiên mức hình phạt mà bản án sơ thẩm đã xử phạt đối với bị cáo Trịnh Minh P 01 (Một) năm tù là phù hợp. Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự không chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Giữ nguyên mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bị cáo không tranh luận, bào chữa mà chỉ đề nghị HĐXX xem xét, giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo vì hoàn cảnh gia đình khó khăn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về tố tụng: Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 28/7/2023, bị cáo Trịnh Minh P kháng cáo Bản án hình sự sơ thẩm số 11/2023/HS-ST, ngày 14/7/2023 của Tòa án nhân dân huyện Lắk với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo. Như vậy, kháng cáo của bị cáo là trong thời hạn luật định. Do đó, Hội đồng xét xử, giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
[2]. Về tội danh: Lời khai của bị cáo Trịnh Minh P tại phiên toà phúc thẩm là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên toà sơ thẩm; phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác và các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận:
Trong khoảng thời gian từ tháng 10/2022 đến ngày 02/11/2022, Nguyễn Hữu H, Trịnh Minh P, Văn Quốc V1, Nguyễn Hữu H1 và Đinh Văn Q đã sử dụng cần câu có bộ phận kích điện, dây thòng lọng, bao, rọ sắt, xe môtô, xe ôtô đi theo dọc tuyến đường Quốc lộ 27 từ khu vực thị trấn L đến xã Đ, xã N, xã K, huyện L và xã Đ, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng trộm cắp 51 con chó của 50 người dân hai bên đường, với tổng thiệt hại là 37.740.000 đồng. Hành vi của các bị cáo Nguyễn Hữu H, Trịnh Minh P, Văn Quốc V1, Nguyễn Hữu H1 và Đinh Văn Q đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo và các bị cáo khác về tội “Trộm cắp tài sản” là có căn cứ đúng người, đúng tội.
[3]. Xét kháng cáo của bị cáo Trịnh Minh P, Hội đồng xét xử xét thấy: Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo cung cấp thêm giấy chứng nhận hộ nghèo, hộ cận nghèo và trích lục khai tử của vợ là Võ Thị N. Tuy nhiên mức hình phạt mà bản án sơ thẩm đã xử phạt đối với bị cáo Trịnh Minh P 01 (Một) năm tù đối với bị cáo là thỏa đáng, tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra. Bị cáo đã cùng các bị cáo khác thực hiện 04 vụ trộm cắp với tổng số tiền là 37.740.000 đồng. Quá trình xét xử tại cấp sơ thẩm, Tòa án đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.
Mặt khác, ngày 11- 01- 2016 bị cáo đã bị Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Lắk đã xử phạt bị cáo 07 năm tù về tội “ Cướp tài sản”, bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà lại tiếp tục phạm tội. Do vậy, HĐXX không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo của bị cáo.
[4]. Về án phí: Do không được chấp nhận kháng cáo nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, bị cáo thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo nên HĐXX miễn án phí phúc thẩm cho bị cáo.
[5]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự.
[1]. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trịnh Minh P, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số: 11/2023/HS-ST, ngày 14/7/2023 của Tòa án nhân dân huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk.
Tuyên bố bị cáo: Trịnh Minh P phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
[2]. Điều luật áp dụng và mức hình phạt:
- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, h, r, s khoản 1, 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015:
- Xử phạt bị cáo Trịnh Minh P 01 (Một) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo tính từ ngày bắt thi hành án, bị cáo được khấu trừ thời gian bị tạm giam từ ngày 07/11/2022 đến ngày 30/11/2022.
[3]. Về án phí: Bị cáo Trịnh Minh P được miễn án phí hình sự phúc thẩm.
[4]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 199/2023/HS-PT về tội trộm cắp tài sản (trộm chó)
Số hiệu: | 199/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/09/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về