Bản án 198/2020/HNGĐ-ST ngày 06/08/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 198/2020/HNGĐ-ST NGÀY 06/08/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG

Hôm nay, ngày 06 tháng 8 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa mở phiên tòa xét xử công khai vụ án dân sự thụ lý số: 470/2020/TLST- HNGĐ ngày 12/02/2020 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 185/2020/QĐXXST- HNGĐ ngày 03 tháng 7 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 240/2020/QĐST-HNGĐ ngày 20 tháng 7 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Trƣơng Thị Hồng V, sinh năm 1987.

Địa chỉ: Số 346/19, tổ A, khu phố B, phường T, thành phố B, Đồng Nai.

2. Bị đơn: Ông Hồng Chống C, sinh năm 1986.

Địa chỉ: Số 141/62, khu phố A, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

(Bà V có xin vắng mặt, ông C vắng mặt không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và đơn xin xét xử vắng mặt ngày 20/7/2020, nguyên đơn bà Trương Thị Hồng V trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông C kết hôn với nhau vào năm 2014, hôn nhân tự nguyện có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai, có tổ chức cưới hỏi. Trong thời gian đầu chung sống có hạnh phúc nhưng sau đó đến năm 2017 phát sinh nhiều mâu thuẫn; Nguyên nhân là do hai vợ chồng bất đồng quan điểm sống, lối sống, tính tình, chuyện nuôi dạy con cái dẫn đến hay gây gỗ, cãi vả với nhau, ông C không lo làm ăn, chơi bời dẫn đến cuộc sống không hạnh phúc. Vợ chồng bà đã tìm cách hòa giải nhưng không có kết quả. Từ năm 2019, bà về nhà mẹ ở địa chỉ số 346/19, tổ A, khu phố B, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai sống và ly thân với ông C từ đó cho đến nay. Bà xác định mâu thuẫn giữa hai người đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, tình trạng hôn nhân không thể kéo dài nên bà làm đơn xin được ly hôn với ông C.

Về con chung: Bà V xác định có một con chung là cháu Hoàng Như Y, sinh ngày 13/11/2015. Ly hôn, bà đề nghị được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Như Y. Tạm thời không yêu cầu ông C cấp dưỡng nuôi con chung.

Bà V xác định tự thỏa thuận tài sản chung với ông C và vợ chồng không có nợ chung.

Do bận công việc nên bà đề nghị vắng mặt tại phiên tòa xét xử vụ án.

Theo bản tự khai, biên bản hòa giải bị đơn ông Hồng Chống C trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Ông và bà V kết hôn với nhau năm 2014, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; có tổ chức đám cưới, hôn nhân tự nguyện. Trong quá trình chung sống, thời gian đầu đến năm 2017, hai vợ chồng xảy ra lục đục, cãi vả, bà V giận dỗi bỏ về nhà mẹ sống. Ông xác định đây là lỗi do ông gây nên. Vợ chồng đã tìm cách hòa giải nhưng không có kết quả. Hiện nay, ông và bà V đã sống ly thân được hai năm nay, mạnh ai nấy sống không còn quan tâm đến nhau nữa. Nay, bà V làm đơn xin ly hôn thì ông xin bà V cho ông một cơ hội để hai vợ chồng hàn gắn đoàn tụ vì ông còn thương vợ con nên ông không đồng ý ly hôn.

Về con chung: Ông C xác định ông bà có một con chung là cháu Hoàng Như Y, sinh ngày 13/11/2015. Nếu Tòa án giải quyết ly hôn, ông đồng ý giao cháu Y cho bà V nuôi và tạm thời ông không cấp dưỡng nuôi con chung.

Ông C xác định tự thỏa thuận tài sản chung với bà V và không có nợ chung. Tại phiên tòa hôm nay, ngoài các chứng cứ các đương sự đã cung cấp từ khi thụ lý, nguyên đơn, bị đơn không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ gì khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Tố tụng:

- Về tư cách tố tụng và quan hệ tranh chấp:

Bà Trương Thị Hồng V khởi kiện yêu cầu ly hôn ông Hồng Chống C và yêu cầu được nuôi con chung. Căn cứ vào Điều 68 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 xác định bà V là nguyên đơn, ông C là bị đơn. Căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, quan hệ pháp luật được xác định là “Ly hôn, tranh chấp việc nuôi con chung”.

- Về thẩm quyền giải quyết: Ông Hồng Chống C có địa chỉ thường trú và cư trú tại phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35, 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 xác định yêu cầu khởi kiện của bà V thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai nên được xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật.

- Về thủ tục tố tụng khác: Bà Trương Thị Hồng V có đơn xin xét xử vắng mặt phù hợp với quy định của pháp luật nên chấp nhận, còn bị đơn ông Hồng Chống C đã được triệu tập xét xử hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn theo quy định tại Điều 227, 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về nội dung tranh chấp:

Bà Trương Thị Hồng V và ông Hồng Chống C chung sống tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân phường Tân Phong, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn vào ngày 24/11/2014. Đối chiếu quy định tại Điều 8, 9 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 xác định hôn nhân của bà V và ông C là hợp pháp.

Bà V và ông C đều thừa nhận sau quá trình chung sống ban đầu thì hai bên phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cãi nhau. Từ năm 2019 đến nay vợ chồng sống ly thân, không còn quan tâm nhau.

Xét thấy: Quá trình làm việc cũng như hòa giải, bà V và ông C đều thừa nhận sau khi kết hôn thời gian đầu vợ chồng chung sống bình thường, hạnh phúc nhưng về sau phát sinh nhiều mâu thuẫn nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, tính cách không hòa hợp, hai vợ chồng hay gây gỗ, xung đột, cải vả với nhau, ông C không lo làm ăn, chơi bời dẫn đến cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc. Hiện nay, hai vợ chồng đã sống ly thân, mạnh ai nấy sống được mấy tháng nay. Nay xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà V xin ly hôn; ông C xin bà V cho ông một cơ hội để hai vợ chồng hàn gắn đoàn tụ vì ông còn thương vợ con nhưng lại không đưa ra được giải pháp gì cụ thể vì bản thân ông không có việc làm ổn định, thường xuyên nhậu nhẹt. Quá trình giải quyết, Tòa án đã thực hiện việc tống đạt giấy triệu tập và các văn bản tố tụng theo quy định tiếp theo cho ông C nhưng ông C không đến làm việc, tham gia tố tụng cũng như tham gia phiên tòa xét xử. Điều này chứng tỏ ông C đã không còn thiết tha, không còn quan tâm và mặc kệ quan hệ hôn nhân với bà V. Như vậy, mâu thuẫn giữa bà V và ông C là có thật, trầm trọng, cuộc sống không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà V, bà V được ly hôn ông C là phù hợp.

Về con chung: Bà V và ông C xác định có một con chung là cháu Hoàng Như Y, sinh ngày 13/11/2015. Bà V yêu cầu được nuôi cháu Như Y, tạm thời không yêu cầu ông C cấp dưỡng nuôi con chung. Ông C cũng thống nhất với ý kiến của bà V.

Xét, bà V có công việc, thu nhập ổn định, đủ khả năng nuôi cháu Như Y và cháu Như Y đang sinh sống cùng bà V. Vì vậy, để tránh ảnh hưởng, xáo trộn đến cuộc sống, tâm sinh lý, sinh hoạt hằng ngày và học tập của cháu nên Hội đồng xét xử giao con chung là cháu Như Y cho bà V trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục là phù hợp. Tạm thời, ông C không phải cấp dưỡng nuôi con chung do bà V không yêu cầu.

Về tài sản chung: Bà V và ông C tự thỏa thuận nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

Về nợ chung: Bà V và ông C khai không có nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

[3] Về án phí: Nguyên đơn bà Trương Thị Hồng V phải chịu toàn bộ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, 35, 39, khoản 4 Điều 147, 228, 266 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;

Áp dụng Điều 8, 9, 51, 56, 58, 71, 81, 82, 83, 84 và Điều 110 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trương Thị Hồng V đối với ông Hồng Chống C.

Cho bà Trương Thị Hồng V được ly hôn ông Hồng Chống C.

2. Về con chung: Giao con chung là cháu Hoàng Như Y, sinh ngày 13/11/2015 cho bà V trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Tạm thời ông C không cấp dưỡng nuôi con chung.

Bà V, ông C có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung mà không ai được cản trở. Vì lợi ích của con chung, trong trường hợp cần thiết, một trong các bên có quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con, yêu cầu cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về tài sản chung: Bà V và ông C tự thỏa thuận nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

4. Về nợ chung: Bà V và ông C khai không có nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

5. Về án phí: Bà Trương Thị Hồng V phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm. Khấu trừ số tiền tạm ứng án phí bà V đã nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0007970 ngày 08/01/2020 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai;

bà V đã nộp đủ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

6. Quyền kháng cáo: Bà Trương Thị Hồng V, ông Hồng Chống C được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 198/2020/HNGĐ-ST ngày 06/08/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung

Số hiệu:198/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;