Bản án 198/2019/HSST ngày 10/09/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NAM TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 198/2019/HSST NGÀY 10/09/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 10/9/2019, tại trụ sở TAND quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 213/2019/TLST-HS ngày 23/8/2019 đối với các bị cáo:

1. Cao Thị L, sinh năm 1972; Giới tính: Nữ

Nơi ĐKNKTT: Tổ 22, phường C, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên. Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do Con ông Cao Văn H và bà Nguyễn Thị T Bị cáo có chồng là Lê Phú C (đã ly hôn) Tiền án, tiền sự: Không Nhân thân:

- Tại bản án hình sự số 122/2010/HSST ngày 15/6/2010 của TAND quận Long Biên, thành phố Hà Nội xử phạt 12 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”. Được trừ đi thời gian tạm giữ từ ngày 27/01/2010 đến ngày 02/02/2010. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt 11 tháng 09 ngày cải tạo không giam giữ. Đã chấp hành xong các quyết định bản án và được xóa án tích.

- Tại bản án hình sự số 162/2012/HSST ngày 28/5/201h2 của TAND quận Long Biên, thành phố Hà Nội xử phạt 48 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, thời ạn tù tính từ ngày 30/01/2012. Đã chấp hành xong các quyết định của bản án và được xóa án tích.

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/5/2019 đến nay – Có mặt

2. Nguyễn Thanh T, sinh năm 1980; Giới tính: Nữ

Nơi ĐKNKTT: Số 109, xóm T, khu phố T, phường T, thị xã T, tỉnh Bắc Ninh. Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do Con ông Nguyễn Tiến S và bà Nguyễn Thanh S Bị cáo có chồng là Trần Văn T, sinh năm 1976, có 01 con sinh năm 2003 Tiền án, tiền sự: Không Nhân thân:

- Tại bản án hình sự số 134/2011/HSST ngày 26/9/2011 của TAND huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội xử phạt 40 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 14/7/2011. Đã chấp hành xong các quyết định bản án và được xóa án tích.

- Ngày 27/4/2007 bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cai nghiện bắt buộc. Ngày 18/4/2009 chấp hành xong thời gian cai nghiện Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/5/2019 đến nay - Có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Các bị cáo bị VKSND quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội truy tố về hành vi phạm tội như sau: Do nghiện ma túy nên Cao Thị L thường mua ma túy về cùng Nguyễn Thanh T sử dụng. Khoảng đầu tháng 5/2019 (không nhớ ngày) L có mua được của 01 người đàn ông không quen biết tại bến xe Gia Lâm 01 gói ma túy đá với giá 300.000đ. Sau khi mua về, L đã san ra một ít để bán, số còn lại L và T cất giấu để sử dụng dần. Khoảng 16 giờ, ngày 08/5/2019 Cao Thị L và Nguyễn Thanh T đang ở phòng trọ của L tại ngõ 438 đường Ngọc Thụy, Long Biên, Hà Nội thì có một người bạn quen biết ngoài xã hội của T tên là H (không rõ lai lịch) gọi điện thoại và nhắn tin qua zalo cho T hỏi mua ma túy đá. T hỏi L còn ma túy đá không để bán cho H, L trả lời chỉ còn một ít nếu có nhu cầu thì L sẽ bán cho với giá 400.000đ, Hà đồng ý và bảo L cùng T thuê taxi chở đến nhà nghỉ Khánh H ở địa chỉ số 28, ngõ 252 đường Đại Mỗ, Nam Từ Liêm, Hà Nội, Hà sẽ thanh toán tiền taxi. Thỏa thuận xong, L giấu gói ma túy đá vào túi xách của L, rồi cùng với T thuê taxi đến nhà nghỉ Khánh Hồng. Khoảng 18 giờ 30 phút thì đến nơi, Hà thanh toán tiền taxi và cùng với T, L đứng ở trước cửa nhà nghỉ Khánh Hồng để thực hiện việc mua bán ma túy. Đúng lúc này tổ công tác Công an phường Đại Mỗ đến kiểm tra, Hà bỏ chạy, còn T và L bị bắt giữ cùng toàn bộ tang vật liên quan đến vụ án.

Tại bản kết luận giám định số 2962 ngày 17/5/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội kết luận: Tinh thể màu trắng trong 01 gói nilong thu giữ của các bị cáo là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,291 gam.

Tại bản cáo trạng số 230/CT-VKS ngày 20/8/2019 của VKSND quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội đã truy tố hai bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 BLHS.

Kết thúc phần tranh tụng; Tại phần tranh luận, đại diện VKS đọc bản luận tội đối với các bị cáo. Nội dung bản luận tội đã phân tích nguyên nhân, động cơ, mục đích phạm tội của các bị cáo; Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ áp dụng đối với mỗi bị cáo và khẳng định cáo trạng truy tố các bị cáo là đúng người đúng tội đúng pháp luật. Đề nghị HĐXX tuyên bố hai bị cáo phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS; Đề nghị xử phạt các bị cáo L, T, mỗi bị cáo từ 36 đến 42 tháng tù; Miễn hình phạt bổ sung cho hai bị cáo; Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu HTC của bị cáo T dùng vào việc phạm tội; Tịch thu tiêu hủy 01 túi xách tay và số ma túy còn lại sau giám định. Trả lại bị cáo L 01 điện thoại di đọng hiệu Itel nhưng tiép tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Tại phiên tòa, hai bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi của mình, lời khai của các bị cáo đúng như nội dung bản cáo trạng truy tố được tóm tắt ở phần trên. Hai bị cáo thừa nhận cáo trạng truy tố và lời luận tội của đại diện VKS đối với các bị cáo tại phiên tòa là đúng người, đúng tội, không oan. Không có bị cáo nào tranh luận với lời luận tội của vị đại diện VKS. Tại lời nói sau cùng các bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Căn cứ vào chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời khai của các bị cáo, HĐXX nhận định: Lời khai nhận tội của tại phiên tòa hôm nay hoàn toàn phù hợp với các tài liệu chứng cứ và lời khai trước đây của các bị cáo có tại hồ sơ vụ án. Có đủ cơ sở kết luận: Hồi 18 giờ 30 phút ngày 08/5/2019, tại trước cổng nhà nghỉ Khánh Hồng, số 28 ngõ 252 đường Đại Mỗ tổ dân phố Chợ, Đại Mỗ, Nam Từ Liêm, Hà Nội, Cao Thị L, Nguyễn Thanh T cùng thực hiện hành vi bán trái phép 0,291 gam ma túy loại Methamphetamine thì bị Tổ công tác Công an phường Đại Mỗ, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội phát hiện, bắt quả tang.

Hành vi của các bị cáo đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 BLHS.

Xét cáo trạng truy tố và lời trình bày luận tội của đại diện VKS tại phiên tòa là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật nên được chấp nhận.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm chính sách độc quyền về quản lý chất ma túy của Nhà nước, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Là nguyên nhân làm phát sinh một số loại tội phạm khác. Trực tiếp hủy hoại sức khỏe đối với người sử dụng, gây mất trật tự trị an, làm băng hoại đạo đức, phong tục tập quán tố đẹp của nhân dân trên địa bàn nơi xảy ra tội phạm.

Trong vụ án này có 02 bị cáo cùng thực hiện hành vi phạm tội. Tuy nhiên, hành vi đồng phạm của các bị cáo chỉ mang tính giản đơn. Bởi lẽ, trước khi phạm tội các bị cáo bị cáo không có sự bàn bạc, phân công, phân nhiệm hoặc cấu kết chặt chẽ với nhau. Các bị cáo cùng là đối tượng nghiện ma túy, cùng mua ma túy về sử dụng, nhưng trước khi sử dụng, hai bị cáo bớt ra một phần bán lại để lấy tiền mua ma túy sử dụng cho lần tiếp theo.

Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng áp dụng đối với các bị cáo: Tính đến ngày phạm tội, bị cáo L đã 02 lần phạm tội, bị xét xử cụ thể:

- Tại bản án hình sự số 122/2010/HSST ngày 15/6/2010 của TAND quận Long Biên, thành phố Hà Nội xử phạt 12 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”. Được trừ đi thời gian tạm giữ từ ngày 27/01/2010 đến ngày 02/02/2010. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt 11 tháng 09 ngày cải tạo không giam giữ. Đã chấp hành xong các quyết định bản án và được xóa án tích.

- Tại bản án hình sự số 162/2012/HSST ngày 28/5/2012 của TAND quận Long Biên, thành phố Hà Nội xử phạt 48 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày 30/01/2012. Đã chấp hành xong các quyết định bản án và được xóa án tích.

Bị cáo T đã 01 lần phạm tội và bị xét xử, 01 lần bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính dưa vào cai nghiện bắt buộc, cụ thể:

- Tại bản án hình sự số 134/2011/HSST ngày 26/9/2011 của TAND huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội xử phạt 40 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn tù tính từ ngày 14/7/2011. Đã chấp hành xong các quyết định bản án và được xóa án tích.

- Ngày 27/4/2007 bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cai nghiện bắt buộc. Ngày 18/4/2009 chấp hành xong thời gian cai nghiện.

Hai bị cáo đã được xóa án tích đối với hành vi phạm tội đã gây ra, không bị coi là có tiền án tiền sự nhưng HĐXX đánh giá cả hai bị cáo có nhân thân không tốt.

Xét cần xử phạt mỗi bị cáo một mức án tương xøng víi tÝnh chÊt, møc ®é hµnh vi cña các bị cáo đã gây ra. Cách ly cả 02 bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung đối với xã hội.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, hai bị có thái độ khai báo thành khẩn và tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. HĐXX áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS để giảm nhẹ hình phạt cho hai bị cáo.

Về hình phạt bổ sung: Do 02 bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy, mua ma túy về mục đích để sử dụng và bớt lại một phần bán lấy tiền mua ma túy để sử dụng cho lần sau, không nhằm mục đích thu L bất chính. Các bị cáo không có tài sản riêng nên miễn hình phạt bổ sung là “Phạt tiền” cho cả 02 bị cáo là phù hợp với quy định của pháp luật và điều kiện thực tế của các bị cáo.

Liên quan trong vụ án còn có người đàn ông bán ma túy cho L và đối tượng tên Hà là người hỏi mua ma túy của T, L (theo lời khai của L). Quá trình điều tra không xác định được nhân thân, địa chỉ của các đối tượng nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra làm rõ và xử lý xét thấy là phù hợp.

Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra thu giữ 02 điện thoại di động, 01 chiếc hiệu HTC màu đen của bị cáo T và 01 túi xách màu mận của bị cáo L. Xác định số tang vật này các bị cáo dùng vào việc phạm tội nên tuyên tịch thu sung công quỹ Nhà nước chiếc điện thoại di động, riêng chiếc túi xách giá trị sử dụng không còn nên tuyên tịch thu tiêu hủy cùng với số ma túy còn lại sau giám định. Đối với chiếc điện thoại hiệu Itel màu đen của bị cáo L xác định không liên quan đến tội phạm nên tuyên trả cho bị cáo L nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Về án phí: Buộc mỗi bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Cao Thị L, Nguyễn Thanh T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, 47 Bộ luật hình sự; Điều 106, 136, 329 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử phạt:

1. Cao Thị L 30 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 09/5/2019.

2. Nguyễn Thanh T 30 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 09/5/2019 Tạm giam mỗi bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án. Về xử lý vật chứng:

Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động hiệu HTC màu đen.

Trả lại bị cáo L 01 điện thoại di động hiệu Itel màu đen nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Tịch thu tiêu hủy 01 túi xách màu mận chín và mẫu vật còn lại sau giám định.

(Toàn bộ vật chứng đã được giao nhận ngày 21/8/2019 giữa Cơ quan điều tra và Chi cục Thi hành án dân sự quận Nam Từ Liêm; Mẫu vật còn lại sau giám định được đựng trong 01 phong bì niêm phong, mép dán có chữ ký của Cao Thị L, Nguyễn Thanh T và cán bộ Phùng Đức A và giám định viên Phạm Đình H).

Về án phí: Buộc mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ tiền án phí HSST.

Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 198/2019/HSST ngày 10/09/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:198/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Nam Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;