Bản án 197/2019/HS-PT ngày 05/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 197/2019/HS-PT NGÀY 05/07/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05 tháng 7 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 180/2019/TLHS-PT ngày 29/5/2019, đối với bị cáo Lê Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 18/2019/HS-ST ngày 24/04/2019 của Tòa án nhân dân huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk.

Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Lê Văn H, sinh năm 1974 tại tỉnh Thái Nguyên; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Xóm P, xã K, huyện PB, tỉnh Thái Nguyên; chỗ ở hiện nay: Khối BA, thị trấn E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lê N (đã chết) và bà Đỗ Thị T, sinh năm 1938; bị cáo có vợ là Bùi Kim A, sinh năm 1974 (đã ly hôn) và có 02 con, con lớn sinh năm 1999, con nhỏ sinh năm 2001; tiền án: có 01 tiền án, tại Bản án số 435/2016/HSPT ngày 23/11/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Đ đã xử phạt bị cáo Lê Văn H 02 năm 03 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (đã chấp hành xong hình phạt vào ngày 04/5/2018); tiền sự: Không.

Về nhân thân: Ngày 19/7/2006, bị Công an xã D, huyện PB, tỉnh Thái Nguyên xử phạt vi phạm hành chính số tiền 200.000 đồng về hành vi trộm cắp tài sản; tại bản án số 05/2004/HSST, ngày 12/01/2004 của Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Thái Nguyên đã xử phạt Lê Văn H 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; tại bản án số 01/2007HSST ngày 09/02/2007 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Bắc Giang, đã xử phạt Lê Văn H 10 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/12/2018 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Văn H là đối tượng nghiện ma túy, sinh sống tại khu vực khối BA, thị trấn E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk. Khoảng 09 giờ ngày 06/12/2018, Lê Văn H điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 98M6-xxxx (H mượn xe của chị Lê Thị Minh T) đi đến khu vực thôn G, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk để mua ma túy về sử dụng. Khi đi đến khu vực nghĩa địa thôn G, H gặp một người đàn ông đi cùng một người phụ nữ (chưa rõ lai lịch) và hỏi mua ma túy, thì hai người này đồng ý nên H đưa cho hai người này số tiền 200.000 đồng rồi nhận lại một gói ma túy. H cầm gói ma túy ghé vào bên đường lấy ra một ít để sử dụng, phần còn lại H gói lại bằng tờ tiền mệnh giá 5.000 đồng rồi cất vào túi quần, tiếp tục điều khiển xe mô tô đi về. Khi đến bờ suối thuộc thôn G, xã E, huyện K thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện K bắt quả tang, thu giữ trong túi quần của H một gói ni lông màu trắng, bên trong có tờ mệnh giá 5.000 đồng gấp lại chứa chất rắn màu trắng, H khai nhận là ma túy và cất giữ để sử dụng.

Tại Bản kết luận giám định số: 1087/GĐMT-PC45 ngày 12/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Đắk Lắk, đã kết luận: Chất rắn màu trắng đựng trong tờ tiền 5.000 đồng được niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng là 0,2151 gam, loại Hêrôin.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 18/2019/HS-ST ngày 24/4/2019 của Tòa án nhân dân huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:

1. Về tội danh:Tuyên bố bị cáo Lê Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự: Xử phạt: Bị cáo Lê Văn H 02 năm 03 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 06/12/2018.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 08/5/2019 bị cáo Lê Văn H có đơn kháng cáo với nội dung: Xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Lê Văn H vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo và đã khai nhận toàn bộ hành vi mà bị cáo đã thực hiện đúng như nội dung vụ án đã được tóm tắt nêu trên.

Quá trình tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Lê Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ và đúng người, đúng tội. Về mức hình phạt 02 năm 03 tháng tù mà bản án sơ thẩm đã xử phạt đối với bị Lê Văn H là thỏa đáng và tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, do đó kháng cáo của bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt là không có căn cứ chấp nhận. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự; không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bị cáo không tranh luận, bào chữa gì và chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai của bị cáo Lê Văn H tại phiên tòa phúc thẩm là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 09 giờ ngày 06/12/2018, Lê Văn H đã mua ma túy và cất giữ trong người để sử dụng, sau đó đã bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện K bắt quả tang, thu giữ trong túi quần của bị cáo một gói chất rắn màu trắng, qua giám định xác định chất rắn màu trắng đã thu giữ của bị cáo là ma túy, có khối lượng là 0,2151 gam, loại Hêrôin. Do đó, bản án sơ thẩm đã xét xử bị cáo Lê Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, là có căn cứ pháp lý và đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Xét kháng cáo của bị cáo Lê Văn H, Hội đồng xét xử nhận thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu về nhiều mặt cho xã hội, hành vi này là nguyên nhân gây tổn hại cho sức khoẻ con người, đồng thời còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an chung của xã hội; bị cáo có nhân thân xấu và có 01 tiền án về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” nhưng không lấy đó làm bài học cho bản thân mà lại tiếp tục tái phạm. Do đó, cần phải áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc và cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định, như vậy mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành một công dân tốt và mới đảm bảo tác dụng răn đe, phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội; xét thấy mức hình phạt 02 năm 03 tháng tù mà bản án sơ thẩm đã xử phạt đối với bị cáo là thỏa đáng và tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, khi quyết định hình phạt bản án sơ thẩm cũng đã xem xét, áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo được hưởng, tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới.

Quyết định của bản án sơ thẩm là có căn cứ pháp luật, nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo và cần giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt, là phù hợp.

[3] Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Lê Văn H phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

[4] Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, nên Hội đồng xét xử không xem xét và đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ: Điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Văn H, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 18/2019/HS-ST ngày 24/4/2019 của Tòa án nhân dân huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk về hình phạt.

Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Lê Văn H 02 (Hai) năm 03 (Ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam, ngày 06/12/2018.

[2] Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Lê Văn H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

182
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 197/2019/HS-PT ngày 05/07/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:197/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;