TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 1970/2023/LĐ-ST NGÀY 20/06/2023 VỀ TRANH CHẤP YÊU CẦU BỒI THƯỜNG TRỢ CẤP THẤT NGHIỆP, ĐÓNG BẢO HIỂM XÃ HỘI, BẢO HIỂM TỰ NGUYỆN
Ngày 20 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử sơ thẩm công khai Vụ án dân sự thụ lý số 56/2022/TLST-LĐ ngày 26/10/2022 về việc “Tranh chấp yêu cầu bồi thường trợ cấp thất nghiệp, đóng BHXH, BHTN” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 1397//QĐXXST-DS ngày 04/4/2023, Quyết định hoãn phiên tòa số: 2093/QĐST-DS ngày 04/5/2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 2809/QĐST-DS ngày 30/5/2023, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Võ Việt H, sinh năm 1966. Địa chỉ: Tổ C, khu phố A, phường H, thành phố B, tỉnh Bình Dương, (xin vắng mặt).
- Bị đơn: Công ty Trách nhiệm hữu hạn K. Địa chỉ trụ sở: Số D Đường số I, khu phố D, phường L, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.
Đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Quang T, sinh năm 1973. Địa chỉ: 2 khu phố B, phường B, thành phố B, tỉnh Đồng Nai, (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo Đom khởi kiện đề ngày 12/4/2022, Bản tự khai ngày 17/11/2022 và các biên bản trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn ông Võ Việt H trình bày: Ông H làm việc tại Công ty Trách nhiệm hữu hạn K (sau đây gọi là Công ty K), chức vụ là công nhân bộ phận sơn từ ngày 01/8/2014. Đến ngày 17/02/2021, do không có việc gì làm nhiều nên ông H viết đơn xin nghỉ việc và được Công ty K cho nghỉ ngay. Tuy nhiên, mặc dù có nhiều lần liên hệ nhưng mãi đến tháng 01/2022, Công ty K mới giao cho ông H quyết định thôi việc số 04/2021/QTC-QĐTV và trả Sổ bảo hiểm xã hội cho ông. Việc này dẫn đến ông H không làm được hồ sơ để hưởng trợ cấp thất nghiệp theo quy định.
Ngày 28/02/2021, ông H có liên hệ Cơ quan Bảo hiểm xã hội Thành phố H để nhờ xác nhận quá trình đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp của Công ty K thì kết quả là Công ty Q.T.C chỉ mới đóng bảo hiểm cho ông đến hết tháng 06/2020.
Nhận thấy việc ông H không làm được hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp, hưởng chế độ bảo hiểm xã hội là do lỗi hoàn toàn từ phía Công ty K, do đó ông H khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc: Công ty K đóng đầy đủ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp cho ông trong thời gian ông làm việc tại Công ty K; bồi thường số tiền bằng với khoản trợ cấp thất nghiệp đáng ra ông H được nhận tương đương số tiền 14.188.200 đồng.
- Bị đơn Công ty K đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến Tòa án để giải quyết vụ án nhưng không đến nên không ghi nhận được ý kiến trình bày.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
+ Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Thu ký, Hội đồng xét xử, đương sự đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình thụ lý sơ thẩm và xét xử. Về phía các đương sự đã thực hiện đầy đủ các quyền của mình theo Bộ luật tố Tụng dân sự năm 2015.
+ Về nội dung: Đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông H về nội dung: Buộc Công ty K thực hiện việc đóng đầy đủ bảo hiểm xã hội cho ông trong thời gian ông Võ Việt H làm việc ở công ty; buộc Công ty K bồi thường số tiền trợ cấp thất nghiệp 05 tháng cho ông H số tiền 14.188.200 đồng. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông H về việc buộc Công ty K thực hiện việc đóng đầy đủ bảo hiểm thất nghiệp cho ông trong thời gian ông Võ Việt H làm việc ở công ty. Án phí đương sự phải chịu án phí theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
San khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Căn cứ Quyết định thôi việc số 04/2021/QTC-QĐTV ngày 17/02/2021 của Công ty K thể hiện Công ty K ra quyết định thôi việc đối với ông H, thời gian chấm dứt hợp đồng kể từ ngày 17/02/2021; căn cứ Sổ Bảo hiểm xã hội số 7909341334 của ông Võ Việt H thể hiện ông H là nhân viên Công ty K có tham gia đóng bảo hiểm xã hội liên tục từ tháng 10/2015 đến tháng 02/2021. Như vậy, có đủ cơ sở để xác định giữa Công ty K và ông Võ Việt H có quan hệ lao động.
Ngày 12/4/2022, ông H nộp đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân quận Thủ Đức yêu cầu Công ty K đóng đầy đủ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp cho ông trong thời gian ông làm việc tại Công ty K và bồi thường số tiền bằng với khoản trợ cấp thất nghiệp đáng ra ông được nhận tương đương số tiền 14.188.200 đồng với lý do Công ty K không đóng đủ tiền bảo hiểm xã hội, không giao quyết định thôi việc cho ông đúng thời gian quy định. Do đó, có cơ sở xác định quan hệ tranh chấp giữa các bên trong vụ án này là tranh chấp lao động về yêu cầu bồi thường trợ cấp thất nghiệp, đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp quy định tại khoản 1 Điều 32 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và quan hệ tranh chấp này thuộc trường hợp không bắt buộc phải qua thủ tục hòa giải theo quy định Điều 188 Bộ luật Lao động.
Công ty K là pháp nhân có trụ sở tại thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh, do đó căn cứ khoản 1 Điều 32, điểm c khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, vụ án thuộc thẩm quyền thụ lý, giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.
[2] Về thủ tục tố tụng: Ông H khởi kiện Công ty K yêu cầu thực hiện đóng và bồi thường về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp nên vụ án không thuộc trường hợp phải hòa giải cơ sở, do đó vụ án đủ điều kiện khởi kiện theo theo quy định tại khoản 1 Điều 32 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
- Về thời hiệu khởi kiện: Ông H yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động cá nhân, thời hiệu khởi kiện là 01 năm theo quy định tại khoản 2 Điều 202 Bộ luật Lao động năm 2012. Ngày 28/02/2022, khi nhận được Phiếu yêu cầu bổ sung hoàn thiện hồ sơ của cơ quan Bảo hiểm xã hội Thành phố H ông H mới biết được Công ty K đóng bảo hiểm xã hội không đầy đủ làm ảnh hưởng đến quyền lợi của ông nên đến ngày 12/4/2022 ông H nộp đơn khởi kiện đến Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức là còn trong thời hiệu khởi kiện. Tuy nhiên, các đương sự trong vụ án không yêu cầu tính thời hiệu khởi kiện nên căn cứ khoản 2 Điều 184 Bộ luật Tố tụng dân sự Hội đồng xét xử không xem xét.
- Xét Bản tự khai và Đơn xin vắng mặt của ông H đã được thực hiện theo quy định nên đây được xem là chứng cứ hợp pháp của vụ án theo quy định tại Điều 94 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
- Bị đơn Công ty K đã được Tòa án triệu tập phiên toà hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, do đó căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bị đơn.
[3] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử xét thấy:
[3.1] Đối với yêu cầu buộc Công ty K thực hiện việc đóng đầy đủ bảo hiểm trong thời gian ông H làm việc ở Công ty K.
Xét thấy, như nhận định ở Mục [1], ông H có thời gian làm việc tại Công ty K từ năm 2015 đến ngày 17/02/2021. Tuy nhiên, tại Cồng văn số 903/BHXH-THU, Bảo hiểm Xã hội thành phố T xác nhận Công ty Q.T.C có đăng ký tham gia Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm thất nghiệp, Bảo hiểm tai nạn lao động - Bệnh nghề nghiệp cho ông H với Mã số 7909341334 từ tháng 10/2015 đến 02/2021 nhưng đến thời điểm tháng 3/2023 Công ty K còn nợ BHXH, BHTN, BHTNLĐ-BNN số tiền 828.031.611 đồng, nợ quỹ BHXH từ tháng 08/2020. Như vậy, có cơ sở xác định Công ty K đã không thực hiện đúng việc nộp bảo hiểm cho người lao động, vi phạm quy định tại điểm b khoản 2 Điều 6, Khoản 1 Điều 48 Bộ luật Lao động; khoản 2, khoản 5 Điều 21 Luật Bảo hiểm xã hội; Điều 43, Điều 44 Luật Việc làm, yêu cầu khởi kiện của ông H về việc yêu cầu Công ty K phải thực hiện việc đóng đầy đủ bảo hiểm xã hội trong thời gian ông làm việc ở công ty là có cơ sở nên được chấp nhận.
[3.2] Đối với yêu cầu buộc Công ty K thực hiện đóng bảo hiểm thất nghiệp trong thời gian ông H làm việc tại Công ty K.
Xét thấy, theo Sổ bảo hiểm xã hội của ông H cũng như theo nội dung xác nhận tại Công văn số 903/BHXH-THU ngày 26/4/2023 nêu trên, có căn cứ xác định Công ty K đã đóng bảo hiểm thất nghiệp cho ông H trong thời gian làm việc tại Công ty K theo đúng quy định, do đó yêu cầu khởi kiện nêu trên của ông H là không có cơ sở chấp nhận.
[3.3] Đối với yêu cầu buộc Công ty K bồi thường số tiền trợ cấp thất nghiệp 14.188.200 (mười bốn triệu một trăm tám mươi tám nghìn hai trăm) đồng.
Xét thấy, ngày 17/02/2021 Công ty K ban hành Quyết định thôi việc số 04/2021/QTC-QĐTV về việc chấm dứt hợp đồng lao động với ông H, tuy nhiên đến ngày 21/12/2021 ông H mới được Công ty K giao quyết định thôi việc và sổ bảo hiểm xã hội. Như vậy, kể từ ngày ông H có quyết định thôi việc (chấm dứt hợp đồng lao động) đến ngày ông H nhận được quyết định thôi việc là hơn 10 tháng. Trong khi đó, điều kiện về thời hạn nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp theo quy định tại Điều 46, Điều 49 Luật Việc làm và Điều 16, Điều 17 Nghị định 28/2015/NĐ-CP ngày 12/3/2015 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Việc làm về bảo hiểm thất nghiệp là 03 tháng kể từ ngày người lao động chấm dứt hợp đồng lao động. Việc Công ty K chậm giao quyết định thôi việc cho ông H là vi phạm quy định khoản 3 Điều 47 Bộ luật Lao động và lỗi của Công ty K dẫn đến hậu quả là ông H không đủ điều kiện để nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp theo quy định.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 18 Nghị định 28/2015/NĐ-CP ngày 12/3/2015 thì tiền trợ cấp thất nghiệp do bảo hiểm xã hội chi trả, tuy nhiên trong trường hợp có thiệt hại và có yêu cầu thì được xem xét giải quyết bồi thường theo quy định tại Điều 116 Luật Bảo hiểm xã hội. Trong trường hợp này, nguyên nhân trực tiếp dẫn đến việc ông H không đủ điều kiện để nộp hồ sơ hưởng bảo hiểm thất nghiệp là do Công ty K không thực hiện nghĩa vụ của mình khi chấm dứt hợp đồng lao động với ông H cụ thể là chậm giao quyết định thôi việc, sổ bảo hiểm xã hội cho ông H, điều này đã ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của ông H. Do đó, việc ông H khởi kiện yêu cầu Công ty K bồi thường số tiền trợ cấp thất nghiệp là có căn cứ theo quy định tại Điều 13, khoản 1 Điều 584 Bộ luật Dân sự 2015 và khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 02/2022/NQ-HĐTP ngày 06/9/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Theo xác nhận tại Công văn số 903/BHXH-THU ngày 26/4/2023 của bảo hiểm xã hội thành phố T, thời gian tham gia bảo hiểm thất nghiệp của ông H là 05 năm 04 tháng. Căn cứ Điều 50 Luật Việc làm, số tiền hưởng trợ cấp thất nghiệp của ông H được tính như sau: 60% x Bình quân của 06 tháng lương liền kề tại thời điểm nghỉ việc x 05 tháng, tương đương 60% x 4.729.400 đồng x 05 tháng = 14.188.200 đồng. Như vậy, yêu cầu khởi kiện nêu trên của ông H là có cơ sở nên được chấp nhận.
Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức tại phiên tòa là phù hợp với nhận định nêu trên của Hội đồng xét xử nên chấp nhận toàn bộ.
Từ những phân tích nêu trên của Hội đồng xét xử và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa, xét thấy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở nên chấp nhận một phần. Buộc bị đơn Công ty TNHH K phải thực hiện việc đóng đầy đủ bảo hiểm xã hội trong thời gian ông Võ Việt H làm việc ở công ty (từ tháng 10/2015 đến tháng 2/2021); buộc Công ty TNHH K bồi thường số tiền trợ cấp thất nghiệp cho ông Võ Việt H số tiền 14.188.200 (mười bốn triệu một trăm tám mươi tám nghìn hai trăm) đồng. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông H về việc buộc Công ty TNHH K thực hiện việc đóng đầy đủ bảo hiểm thất nghiệp cho ông H trong thời gian ông làm việc tại công ty.
[4] Về án phí dân sự sơ thẩm:
Căn cứ khoản 1 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 12, Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng về án phí, lệ phí Tòa án thì ông Võ Việt H được miễn án phí; bị đơn Công ty K phải chịu tiền án phí lao động sơ thẩm đối với phần yêu cầu của ông H được Tòa án chấp nhận. Cụ thể, chịu án phí dân sự sơ thẩm không giá ngạch 300.000 đồng và án phí có giá ngạch được tính trên số tiền 14.188.200 đồng, tương đương án phí 425.646 đồng, tổng cộng án phí dân sự sơ thẩm Công ty K phải chịu là 725.646 đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ khoản 1 Điều 32, điểm c khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 94, khoản 1 Điều 147, khoản 2 Điều 184, điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228, khoản 1 Điều 273; Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
- Căn cứ Điều 13, Điều 357, khoản 2 Điều 468, khoản 1 Điều 584 Bộ luật Dân sự năm 2015;
- Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 6, khoản 3 Điều 47, khoản 1 Điều 48, Điều 188, khoản 2 Điều 202 Bộ luật Lao động năm 2012;
- Căn cứ khoản 2, khoản 5 Điều 21 Luật Bảo hiểm xã hội;
- Căn cứ Điều 43, Điều 44 Điều 46, Điều 49, Điều 50 Luật Việc làm;
- Căn cứ Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014);
- Căn cứ Điều 16, Điều 17, khoản 2 Điều 18 Nghị định số 28/2015/NĐ-CP ngày 12/3/2015 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Việc làm về bảo hiểm thất nghiệp;
- Căn cứ khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 02/2022/NQ-HĐTP ngày 06/9/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao Hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng;
- Căn cứ Điều 12, Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng về án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn - ông Võ Việt H.
- Buộc bị đơn - Công ty Trách nhiệm hữu hạn K phải thực hiện việc đóng đầy đủ bảo hiểm xã hội trong thời gian ông Vố Việt H làm việc ở công ty (từ tháng 10/2015 đến tháng 2/2021);
- Buộc Công ty Trách nhiệm hữu hạn K bồi thường số tiền trợ cấp thất nghiệp cho ông Võ Việt H số tiền 14.188.200 (mười bốn triệu một trăm tám mươi tám nghìn hai trăm) đồng.
Các bên thi hành tại Cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn - ông Võ Việt H về việc buộc bị đơn - Công ty Trách nhiệm hữu hạn K thực hiện việc đóng đầy đủ bảo hiểm thất nghiệp cho ông H trong thời gian ông làm việc tại Công ty.
3. Về án phí dân sự sơ thẩm:
- Ông Võ Việt H không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
- Công ty Trách nhiệm hữu hạn K phải chịu án phí dân sự sơ thẩm số tiền 425.646 (bốn trăm hai mươi lăm nghìn sáu trăm bốn mươi sáu) đồng. Công ty Trách nhiệm hữu hạn K chưa nộp án phí.
4. Về quyền yêu cầu thi hành án: Trường hợp quyết định này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
5. Quyền kháng cáo, kháng nghị: Ông Võ Việt H, Công ty Trách nhiệm hữu hạn K được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được cấp, tống đạt, niêm yết, thông báo theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Viện kiểm sát được quyền kháng nghị bản án theo quy định pháp luật./.
Bản án 1970/2023/LĐ-ST về tranh chấp yêu cầu bồi thường trợ cấp thất nghiệp, đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm tự nguyện
Số hiệu: | 1970/2023/LĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân TP. Thủ Đức - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Lao động |
Ngày ban hành: | 20/06/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về