TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 196/2019/HNGĐ-ST NGÀY 05/06/2019 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ N VÀ ANH G
Ngày 05 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 04/2019/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 01 năm 2019 về “Ly hôn” theo Quyết định Đưa vụ án ra xét xử số 62/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 4 năm 2019 và Quyết định Hoãn phiên tòa số 56/2019/QĐST-HNGĐ ngày 15 tháng 5 năm 2019 giữa các đương sự:
1.Nguyên đơn: Chị L T K N, sinh ngày 10-01-1999 (có mặt)
Cư trú: Tổ 12, ấp L A, xã O L V, huyện C P, tỉnh An Giang.
2.Bị đơn: Anh P T G, sinh ngày 01-01-1993 (vắng mặt)
Nơi cư trú: Tổ 14, ấp V L, xã V H, huyện C T, tỉnh An Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện xin ly hôn, tờ tự khai ngày 12-12-2018, quá trình tố tụng và tại phiên tòa nguyên đơn chị L T K N trình bày:
+Về hôn nhân: Chị và anh P T G kết hôn, do quen biết, tự nguyện tiến tới hôn nhân, có tổ chức đám cưới vào ngày 14-6-2016. Có đăng ký kết hôn tại UBND xã O L V, huyện C P, tỉnh An Giang số 08 ngày 03-02-2017. Sau khi cưới vợ chồng lên tỉnh Bình Dương thuê trọ và làm công nhân sinh sống. Vợ chồng chung sống hạnh phúc khoảng hơn năm thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, cuộc sống gia đình khó khăn, anh G thường xuyên ăn nhậu không lo làm ăn, không quan tâm chăm lo gia đình. Từ tháng 7/2018 vợ chồng sống ly thân cho đến nay. Từ khi sống ly thân cho đến nay chị nhiều lần gặp anh G cũng như nhờ bà nội chồng hòa giải để hàn gắn lại tình cảm nhưng không thành. Nay chị nhận thấy không thể duy trì tình trạng hôn nhân nên xin ly hôn với anh P T G.
+Về con chung: Có 01 con chung tên P T K Y, sinh ngày 28-11-2016, hiện chị đang nuôi dưỡng. Nếu ly hôn chị yêu cầu được tiếp tục nuôi con.
+Về cấp dưỡng nuôi con: Chị không yêu cầu anh G cấp dưỡng nuôi con.
+Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Sau khi thụ lý vụ án Tòa án đã tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án và 2 lần thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho anh P T G, nhưng anh G vẫn không gửi văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không cung cấp chứng cứ, không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 15-3-2019, bà V T G trình bày: Bà là bà nội của P T G. G đang đi làm xa nhà, bà có thông báo cho G biết việc Tòa án mời giải quyết vụ án. G đăng ký hộ khẩu thường trú tại nhà bà, lâu lâu về thăm bà một vài lần. G – N sinh sống ở tỉnh Bình Dương nên bà không biết rõ nguyên nhân mâu thuẫn; G thường hay nhậu nhẹt, không lo làm ăn; còn việc G – N có đoàn tụ được hay không bà không rõ.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh An Giang phát biểu quan điểm như sau:
1/Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án đã thực hiện đầy đủ trình tự thủ tục tố tụng được pháp luật quy định tại Bộ Luật Tố tụng Dân sự.
2/Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thủ tục tố tụng: Đối với bị đơn anh P T G, Tòa án đã tống đạt hợp lệ Quyết định Đưa vụ án ra xét xử, Quyết định Hoãn phiên tòa nhưng anh G vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ Điều 227 và Điều 228 của Bộ Luật Tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt theo thủ tục chung đối với bị đơn anh G.
[2] Về hôn nhân: Chị L T K N và anh P T G kết hôn vào năm 2016. Có đăng ký kết hôn tại UBND xã O L V, huyện C P, tỉnh An Giang số 08 ngày 03-02-2017 theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, nên hôn nhân này là hợp pháp và được pháp luật bảo vệ. Chị N có yêu cầu ly hôn. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án tổ chức hòa giải để hàn gắn lại tình cảm giữa chị N và anh G nhưng anh G không tham gia hòa giải. Từ tháng 7/2018 chị N và anh G sống ly thân cho đến nay. Từ khi sống ly thân cả hai đều bỏ mặc không tìm cách hàn gắn lại tình cảm. Bà V T G là bà nội sống chung nhà với anh G cho rằng anh G thường nhậu nhẹt, không lo làm ăn. Điều này cho thấy đời sống hôn nhân đã thật sự trầm trọng, khả năng đoàn tụ không còn. Đối chiếu với quy định của pháp luật tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Hội đồng xét xử xét thấy nên chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn là chị N được ly hôn với anh G là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.
[3] Về con chung: Chị L T K N và anh P T G có 01 con chung. Chị N có yêu cầu nuôi con, anh G không có ý kiến.
Xét thấy: Cháu K Y từ nhỏ đã quen sống với gia đình chị N. Từ sau khi sống ly thân cho đến nay chị N nuôi dưỡng và chăm sóc cháu chu đáo. Đối chiếu với quy định của pháp luật tại khoản 3 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Vì vậy, để không làm thay đổi cuộc sống cũng như sự phát triển tâm sinh lý của cháu; Hội đồng xét xử xét thấy nên để cho chị N được tiếp tục nuôi dưỡng con chung là phù hợp.
Chị L T K N và các thành viên trong gia đình chị N không được cản trở anh P T G trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con theo quy định tại khoản 2 Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
Anh P T G lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì chị N có quyền yêu cầu Toà án hạn chế quyền thăm nom con của anh G theo quy định tại khoản 3 Điều 82 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị L T K N không yêu cầu anh P T G cấp dưỡng nuôi con. Anh G không có ý kiến. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét.
[5] Về tài sản chung, nợ chung: Chị L T K N trình bày không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Anh P T G không có ý kiến. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét.
[6] Về án phí: Đối chiếu với quy định của pháp luật tại khoản 4 Điều 147 của Bộ Luật Tố tụng Dân sự; Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30-12-2016, của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, Nguyên đơn chị L T K N phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào 300.000đ tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0014028 ngày 08-01-2019 của Chi Cục Thi hành án Dân sự huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
[7] Về quyền kháng cáo: Đối chiếu với quy định của pháp luật tại Điều 271 và Điều 273 của Bộ Luật Tố tụng Dân sự;
Nguyên đơn chị L T K N có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (05-6-2019) Bị đơn anh P T G vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28; Điểm a khoản 1 Điều 35; Điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Các Điều 227, 228, 266, 271 và 273 của Bộ Luật Tố tụng Dân sự; Các Điều 9, 56, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30-12-2016, của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án,
Xử:
[1] Về hôn nhân: Chị L T K N được ly hôn với anh P T G.
Giấy chứng nhận kết hôn số 08 ngày 03-02-2017 của Ủy ban nhân dân xã O L V, huyện C P, tỉnh An Giang không còn giá trị pháp lý.
[2] Về con chung: Chị L T K N được tiếp tục nuôi dưỡng con chung tên P T K Y, sinh ngày 28-11-2016.
Chị L T K N và các thành viên trong gia đình chị N không được cản trở anh P T G trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con theo quy định tại khoản 2 Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
Anh P T G lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì chị N có quyền yêu cầu Toà án hạn chế quyền thăm nom con của anh G theo quy định tại khoản 3 Điều 82 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
[3] Về án phí: Nguyên đơn chị L T K N phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào 300.000đ tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0014028 ngày 08-01-2019 của Chi Cục Thi hành án Dân sự huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.
[4] Về quyền kháng cáo:
Nguyên đơn chị L T K N có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (05-6-2019) Bị đơn anh P T G vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 196/2019/HNGĐ-ST ngày 05/06/2019 về ly hôn giữa chị N và anh G
Số hiệu: | 196/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 05/06/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về