Bản án 195/2020/HNGĐ-ST ngày 03/04/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 195/2020/HNGĐ-ST NGÀY 03/04/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 03 tháng 4 năm 2020, tại phòng xử án của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 1049/2019/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 9 năm 2019 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 21/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 11 tháng 02 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 31/2020/QĐST-HNGĐ ngày 03 tháng 3 năm 2020 giữa:

1. Nguyên đơn: Bà Trương Thúy H, sinh năm 1974;

Đa chỉ: A17/26GE tổ 50C, ấp 1A, xã BH, huyện B, Thành phố H.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn D, sinh năm 1977;

Đa chỉ: A17/26GE tổ 50C, ấp 1A, xã BH, huyện B, Thành phố H

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn xin ly hôn ngày 26/8/2019, bản tự khai ngày 20/9/2019, biên bản về việc không tiến hành hòa giải được ngày 23/10/2019, nguyên đơn Bà Trương Thúy H trình bày:

Bà Trương Thúy H và ông Nguyễn Văn D tự quen biết, tìm hiểu và bắt đầu chung sống với nhau từ năm 2000. Ông D và bà có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường A, Quận T, Thành phố H ngày 25/4/2000. Ông Thiện và bà chung sống hạnh phúc đến năm 2010 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do tính tình ông D độc đoán, gia trưởng, vợ chồng thường xuyên bất hòa. Hiện nay Bà H không còn tình cảm với ông D, không thể hàn gắn được nên yêu cầu ly hôn.

Về con chung: Bà và ông D có 02 con chung tên Nguyễn Thúy H1, sinh ngày 23/9/2000 (đã trưởng thành) và Nguyễn Thúy T, sinh ngày 05/8/2003. Khi ly hôn Bà H yêu cầu được nuôi trẻ Thảo, không yêu cầu ông D cấp dưỡng nuôi con.

Tài sản chung: Bà với ông D tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Nợ chung: Bà H xác nhận bà và ông D không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngoài ra Bà H không có ý kiến, yêu cầu gì khác. Do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 nên Bà H yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt bà.

Ông Nguyễn Văn D vắng mặt trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh phát biểu ý kiến:

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng theo quy định.

- Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

+ Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của Bà Trương Thúy H với ông Nguyễn Văn D.

+ Về con chung: Có 02 con chung tên Nguyễn Thúy H1, sinh ngày 23/9/2000 (đã trưởng thành) và Nguyễn Thúy T, sinh ngày 05/8/2003. Giao trẻ Nguyễn Thúy T, sinh ngày 05/8/2003 (giới tính nữ) cho Bà H trực tiếp nuôi dưỡng, ghi nhận sự tự nguyện của Bà H không yêu cầu ông D cấp dưỡng nuôi con.

Ông D có quyền thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được quyền ngăn cản. Vì lợi ích con chung, khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu thay đổi việc nuôi con hoặc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

+ Về án phí: Bà H phải chịu án phí sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:

[1.1] Bà Trương Thúy H khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Nguyễn Văn D. Đây là tranh chấp về ly hôn được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

[1.2] Bị đơn ông Nguyễn Văn D cư trú tại địa bàn huyện Bình Chánh nên theo quy định tại điểm a, khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh.

[2] Về sự vắng mặt của các đương sự: Bà Trương Thúy H có đơn đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt, ông Nguyễn Văn D đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa đến lần thứ hai không có lý do. Do đó, Tòa án xét xử vắng mặt Bà H, ông D là phù hợp với quy định tại Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về các yêu cầu của đương sự, Hội đồng xét xử xét thấy như sau:

[3.1] Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ vào Giấy chứng nhận kết hôn số 30 Quyển số 01/2012 do Ủy ban nhân dân Phường A, Quận T, Thành phố H cấp ngày 25/4/2000 (do đăng ký trễ hạn) thì Bà Trương Thúy H và ông Nguyễn Văn D là vợ chồng hợp pháp được pháp luật công nhận quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3.2] Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập ông D đến để ông D trình bày ý kiến, làm rõ mâu thuẫn giữa ông Bà H; đã tổ chức các buổi hòa giải để động viên ông D và Bà H hóa giải mâu thuẫn, hàn gắn lại quan hệ vợ chồng. Tuy nhiên, ông D vắng mặt tại tất cả những phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ cũng như phiên hòa giải; ông D cũng không có mặt theo lịch triệu tập của Tòa án mà vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, giấy triệu tập. Ông D cũng không có văn bản trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của Bà H. Điều này chứng tỏ ông D không thật sự có mong muốn hòa giải với Bà H, không có sự cố gắng để hàn gắn quan hệ vợ chồng.

[3.3] Theo Kết quả xác minh tình trạng hôn nhân của Ủy ban nhân dân xã BH, huyện BC thể hiện: “…Nguyên nhân mâu thuẫn: Không rõ. Hiện nay bà Thúy Hồng và ông D vẫn còn chung sống tại địa chỉ nêu trên…”. Căn cứ và kết quả xác minh của Ủy ban nhân dân xã BH và lời trình bày của Bà H, Hội đồng xét xử nhận thấy giữa Bà H và ông D đã không còn sự quan tâm, chăm sóc nhau và chăm lo cho cuộc sống gia đình, mâu thuẫn hôn nhân của ông bà đã đến mức trầm trọng. Ông D không thật sự có mong muốn hàn gắn lại gia đình.

[3.4] Tại Điều 19 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định:

1. Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình.

2. Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lý do chính đáng khác”.

Nhận thấy tình trạng hôn nhân giữa Bà H và ông D đã mâu thuẫn trầm trọng, giữa vợ chồng ông D và bà đã không còn sự thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; đời sống chung giữa Bà H và ông D không thể kéo dài thì mục đích của hôn nhân không đạt được. Do đó, yêu cầu ly hôn của Bà Trương Thúy H là có cơ sở, phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3.5] Về con chung: Bà Trương Thúy H xác nhận giữa bà và ông D có 02 con chung tên Nguyễn Thúy H1, sinh ngày 23/9/2000 (đã trưởng thành) và Nguyễn Thúy T, sinh ngày 05/8/2003. Hiện nay trẻ Thảo đang sống với Bà H.

Tại Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: “Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”.

[3.6] Kết quả xác minh tình trạng hôn nhân của Ủy ban nhân dân xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh thể hiện: “…Ông D, Bà H có 02 con chung và đang sống chung với bà Thúy Hồng và ông D tại địa chỉ nêu trên”. Bà H có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng trẻ Thảo, ông D vắng mặt không thể hiện ý kiến của mình. Hội đồng xét xử nhận thấy trẻ Thảo là nữ nên cần được sự quan tâm nhiều hơn từ Bà H để trẻ có thể phát triển hoàn thiện về tâm sinh lý. Hiện nay trẻ đang sống cùng Bà H, nếu tiếp tục giao trẻ cho Bà H nuôi dưỡng sẽ giúp trẻ ổn định về tâm lý quyết định nêu trên cũng phù hợp với nguyện vọng của trẻ Thảo được thể hiện tại biên bản ghi nhận ý kiến ngày 20/9/2019. Do đó, để đảm bảo cho sự phát triển toàn diện về thể chất và tinh thành của trẻ Thảo, Hội đồng xét xử quyết định giao trẻ Thảo cho Bà H trực tiếp nuôi dưỡng.

[3.7] Về cấp dưỡng nuôi con: Khoản 1 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: “Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên…”.

Tại khoản 2 Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: “Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con”. Việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ Thảo là trách nhiệm chung của cả Bà H và ông D. Để đảm bảo cho sự phát triển về mọi mặt của trẻ Thảo, Hội đồng xét xử nhận thấy không giao con chung cho ông D trực tiếp nuôi dưỡng nhưng cần phải buộc ông D cấp dưỡng nuôi con. Trong quá trình giải quyết vụ án, ông D không thể hiện ý kiến về việc cấp dưỡng nuôi con trong trường hợp Tòa án giao con chung cho Bà H trực tiếp nuôi dưỡng. Bà H không yêu cầu ông D có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy đây là sự tự nguyện của Bà H, không trái quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử ghi nhận, tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung của ông D.

[3.8] Về tài sản chung: Bà H xác nhận ông bà tự thỏa thuận về tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nếu sau này giữa bà và ông D có tranh chấp thì bà sẽ khởi kiện bằng một vụ án khác.

[3.9] Nợ chung: Bà H xác nhận giữa ông bà không có bất kỳ khoản nợ chung nào nên không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Về án phí: Căn cứ theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Bà Trương Thúy H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Điều 56, Điều 57, Điều 58 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án;

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Trương Thúy H được ly hôn với ông Nguyễn Văn D.

Giấy chứng nhận kết hôn số 30 Quyển số 01/2012 do Ủy ban nhân dân Phường A, Quận T, Thành phố H cấp ngày 25/4/2000 không còn giá trị pháp lý.

2. Về con chung: Có 02 con chung tên Nguyễn Thúy H1, sinh ngày 23/9/2000 (đã trưởng thành) và Nguyễn Thúy T, sinh ngày 05/8/2003.

Giao trẻ Nguyễn Thúy T, sinh ngày 05/8/2003 (giới tính nữ) cho Bà Trương Thúy H trực tiếp nuôi dưỡng. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung của ông D. Ông Nguyễn Văn D có quyền thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được quyền ngăn cản. Vì lợi ích con chung, khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu thay đổi việc nuôi con hoặc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung: Bà H xác nhận ông D và bà tự thỏa thuận về tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nếu sau này giữa bà và ông D có tranh chấp thì bà sẽ khởi kiện bằng một vụ án khác.

4. Nợ chung: Bà H xác nhận giữa ông D và bà không có bất kỳ khoản nợ chung nào nên không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

5. Về án phí: Bà Trương Thúy H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) mà Bà H đã nộp theo biên lai thu số AA/2019/0002909 ngày 13 tháng 9 năm 2019 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.

6. Về quyền kháng cáo: Đương sự được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày được giao bản án hoặc bản án được niêm yết công khai tại địa phương.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 195/2020/HNGĐ-ST ngày 03/04/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:195/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 03/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;