TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN
BẢN ÁN 195/2017/HSST NGÀY 29/11/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 29 tháng 11 năm 2017, tại Nhà Văn hóa khối 9 phường H, thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 196/2017/HSST ngày 08 tháng 11 năm 2017 đối với bị cáo:
Vũ Đức H, sinh ngày 22/4/1983 tại Lạng Sơn; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Đường M, khối 8, phường H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Chỗ ở: Đường B, khối 9, phường H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; con ông: Vũ Đức N, sinh năm 1957 và con bà Linh Thị H, sinh năm 1958; vợ: Nguyễn Thị H, sinh năm 1990; con: Có 02 con (lớn sinh năm 2012, nhỏ sinh năm 2015); tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/9/2017 cho đến nay. Có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Linh Thị H, sinh năm 1958. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Đường M, khối 8, phường H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Chỗ ở: Đường B, khối 9, phường H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.
NHẬN THẤY
Bị cáo Vũ Đức H bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn truy tố về hành vi phạm tội như sau: Hồi 8 giờ 40 phút ngày l7/9/2017 tổ công tác Công an thành phố L làm nhiệm vụ tại khu vực ngã tư đường N giao nhau với đường L, phường T, thành phố L, phát hiện bắt quả tang Vũ Đức H có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.
Thu giữ 01 gói giấy bạc chứa chất bột màu trắng, 01 xe mô tô biển kiểm soát 12P1-104.00.
Kết luận giám định số 338/KL-PC54 ngày 20/9/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Chất bột màu trắng có trong giấy bạc màu trắng gửi giám định là chất Heroine có trọng lượng 0,147gam (đã trừ bì).
Tại cơ quan điều tra Vũ Đức H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội.
Tại bản cáo trạng số 199/KSĐT ngày 07/11/2017 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Vũ Đức H về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa bị cáo Vũ Đức H khai nhận: Do nghiện ma túy, khoảng 8 giờ 30 phút ngày 17/9/2017, bị cáo một mình đi xe mô tô biển kiểm soát 12P1-104.00 từ nhà đi tìm mua ma túy về sử dụng, khi bị cáo đi đến trước cửa nhà hàng T, đường L, phường T, thành phố L thì gặp một người đàn ông tên N, người bị cáo quen biết từ trước đang đi bộ một mình, bị cáo hỏi mua 200.000 đồng ma túy, N đồng ý và cầm tiền, N bảo bị cáo chờ sau đó N đi đâu bị cáo không rõ. Sau khi đưa tiền cho N, do đợi lâu bị cáo điều khiển xe mô tô đi tìm N và đã gặp N tại khu vực ngã tư đường N giao nhau với đường L, phường T, thành phố L, N đưa cho bị cáo 01 gói ma túy rồi N đi đâu bị cáo không rõ. Bị cáo cầm gói ma túy trong lòng bàn tay trái và ngồi trên xe mô tô chuẩn bị đi về nhà để sử dụng thì bị lực lượng Công an đến kiểm tra, bắt quả tang, bị cáo thả gói ma túy từ lòng bàn tay trái xuống dưới đất gần chỗ bị cáo đang đứng. Bị cáo biết hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo để bị cáo sớm được trở về cùng với gia đình.
Tại phiên tòa bà Linh Thị H trình bày: Ngày 17/9/2017 Vũ Đức H có sử dụng chiếc xe mô tô biển kiểm soát 12P1-104.00 của bà đi mua ma túy về sử dụng, chiếc xe bị Công an thu giữ là phương tiện do con trai bà là Vũ Đức H để cho bà quản lý và sử dụng, việc H dùng xe mô tô để đi mua ma túy bà không biết. Ngày 18/10/2017 bà đã được cơ quan Điều tra Công an thành phố L trả lại chiếc xe nên bà không còn có yêu cầu gì khác.
Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn giữ nguyên nội dung quyết định truy tố như nội dung bản cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Vũ Đức H phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy"; áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46, Điều 33 của Bộ luật hình sự 1999; khoản 3 Điều 7, khoản 1 Điều 249, của Bộ luật hình sự 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017; Quy định tại điểm b khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội để giải quyết vụ án, đề nghị xử phạt bị cáo Vũ Đức H từ 15 tháng đến 18 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo vì bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy, không có việc làm ổn định, không có tài sản.
Về vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 41 của Bộ luật hình sự; Điều 76 của Bộ luật tố tụng hình sự:
Tịch thu để tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong sau giám định. Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và người tham gia tố tụng khác.
XÉT THẤY
Lời khai của bị cáo Vũ Đức H tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang và những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên toà.
Xét tính chất, mức độ hành vi của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý chất ma tuý của Nhà nước. Ma tuý là chất gây nghiện, gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của con người và nền kinh tế của đất nước, gây mất trật tự an ninh tại địa phương, bị cáo nhận thức được tác hại của ma túy, tuy bị cáo biết việc tàng trữ chất ma túy là trái phép bị pháp luật ngăn cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Như vậy, với hành vi mà bị cáo đã thực hiện, qua kết quả giám định, Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Vũ Đức H phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo quy định tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình sự. Do đó, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn truy tố bị cáo Vũ Đức H là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Xét về nhân thân: Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là hành vi vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố ý thực hiện.
Về tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên toà hôm nay cũng như trong quá trình điều tra bị cáo đã thành khẩn khai báo toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân, ăn năn hối cải về việc làm mà mình đã gây ra, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự.
Khi xét xử các vụ án hình sự thuộc các trường hợp "Các điều khoản của Bộ luật hình sự năm 2015 xóa bỏ một tội phạm, một hình phạt, một tình tiết tăng nặng; quy định hình phạt nhẹ hơn, tình tiết giảm nhẹ mới; miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, xóa án tích và các quy định khác có lợi cho người phạm tội, thì được áp dụng đối với cả những hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành" quy định tại điểm b khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội để giải quyết vụ án. Theo quy định tại khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình sự 1999 tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy" có khung hình phạt từ 02 đến 07 năm tù. Theo quy định tại khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy" có khung hình phạt từ 01 đến 05 năm tù nên cần áp dụng quy định có lợi cho người phạm tội khi quyết định hình phạt do đó, Hội đồng xét xử sẽ xem xét khi lượng hình.
Về tình tiết tăng nặng: Không có.
Theo biên bản xác minh ngày 02/10/2017 bị cáo Vũ Đức H là đối tượng nghiện không có việc làm, không có tài sản riêng và tài sản có giá trị. Do vậy, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
Về vật chứng:
- 01 (một) phong bì niêm phong sau giám định, cần tịch thu để tiêu hủy. Đối với xe mô tô biển kiểm soát 12P1-104.00, quá trình điều tra xác định xe là của bà Linh Thị H (là mẹ đẻ của H) việc Hòa lấy xe đi mua ma túy bà H không biết, ngày 18/10/2017 Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe trên cho bà Linh Thị H, do đó Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.
Đối với người đàn ông tên N đã bán ma túy cho bị cáo, do bị cáo không rõ tên, tuổi, địa chỉ cụ thể, nên cơ quan điều tra không có căn cứ điều tra, làm rõ để xử lý trong vụ án, do đó Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.
Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về mức hình phạt áp dụng đối với bị cáo là phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và hậu quả của tội phạm do bị cáo thực hiện, đảm bảo tính răn đe, giáo dục đối với bị cáo, về hướng xử lý tang vật theo đúng quy định pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm; bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định;
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Vũ Đức H phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".
2. Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 194; Điều 33; điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự năm 1999; điểm b khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội; khoản 3 Điều 7 và khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.
Xử phạt bị cáo Vũ Đức H 15 (mười lăm) tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ 17/9/2017.
3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 41 của Bộ luật hình sự; khoản 1, 2 Điều 76 của Bộ luật tố tụng hình sự;
- Tịch thu để tiêu hủy: 01 (một) phong bì niêm phong sau giám định.
Vật chứng trên được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn theo biên bản giao nhận ngày 25/10/2017 giữa Cơ quan điều tra Công an thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn.
4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự và khoản 1 Điều 21 của Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 của ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30/6/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; Buộc bị cáo Vũ Đức H phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung công quỹ Nhà nước.
Án xử sơ thẩm công khai có mặt bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan báo cho biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 195/2017/HSST ngày 29/11/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 195/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/11/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về