TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 194/2022/KDTM-PT NGÀY 09/11/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG XÂY DỰNG
Ngày 09/11/2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án Kinh doanh thương mại thụ lý số 69/2022/KDTM - PT ngày 09/6/2022 về việc “Tranh chấp hợp đồng xây dựng”.
Do bản án sơ thẩm số 02/2022/KDTM-ST ngày 12/01/2022 của Tòa án nhân dân quận L, thành phố Hà Nội bị kháng cáo. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 504/2022/QĐ-PT ngày 27/10/2022 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Công ty TNHH S.
Trụ sở: Số 54 ngõ 51 tổ dân phố 12, phường T, thành phố Đ, tỉnh Điện Biên.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Đỗ T - Giám đốc.
Người đại diện theo ủy quyền: Ồng Trần T Hộ khẩu thường trú : phòng 228, tầng 2 Tòa nhà B14-HH01A,tổ dân phố số 2, khu đô thị T, xã C, huyện Thanh O, Hà Nội.
Bà Nguyễn Thị Hương Hộ khẩu thường trú: phòng 428, tầng 2 tòa nhà B14-HH01A, tổ dân phố số 2 khu đô thị T, xã C, huyện Thanh O, Hà Nội.
Địa chỉ liên hệ: Tòa nhà T, lô B3.1 khu đô thị T, Cienco 5, xã C, huyện Thanh O, Hà Nội. ( Có mặt).
Bị đơn: Công ty Cổ phần BOT Phả Lại.
Trụ sở: P1503 tầng 14 tòa nhà Plaschem số 562 N, phường G, quận L, Hà Nội.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Lương Đức M - Giám đốc.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Đoàn Trọng Bằng, ông Nguyễn Thế Th.
Địa chỉ: Công ty luật TNHH B, tầng 4 tòa nhà 14 L, phường Thành Công, quận Ba Đình, Hà Nội.
( Có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
1.Tại đơn khởi kiện và biên bản tự khai, các biên bản ghi lời khai tại tòa Nguyên đơn Công ty TNHH S do người đại diện theo ủy quyền trình bày:
Ngày 01/7/2015, ba công ty gồm Công ty TNHH S (gọi tắt là Công ty S), Công ty cổ phần Tập đoàn H và Công ty cổ phần công trình giao thông Hp đã ký Thỏa thuận liên danh để thành lập liên danh tham gia và phân công trách nhiệm để thực hiện gói thầu XL05- Thi công nền, mặt đường, cầu, cống và hệ thống thoát nước đoạn Km46+300-Km53+800 thuộc dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 18 đoạn Bắc Ninh - Uông Bí theo hình thức Hợp đồng BOT.
Ngày 15/07/2015, Liên danh các nhà thầu, bao gồm Công ty TNHH S, Công ty cổ phần Tập đoàn H và Công ty cổ phần Công trình giao thông Hp ký kết Hợp đồng thi công xây dựng số 0507/2015/HĐXL.PL với chủ đầu tư là Công ty cổ phần BOT Phả Lại (gọi tắt là BOT Phả Lại) để thi công xây dựng toàn bộ các hạng mục của gói thầu XL05 thuộc Dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 18 đoạn Bắc Ninh - Uông Bí theo hình thức hợp đồng BOT. Phần gói thầu Công ty TNHH S thi công là: Toàn bộ các hạng mục liên quan đến nền đường, móng đường, cống, hệ thống thoát nước và các hạng mục khác (trừ hạng mục mặt đường bê tông nhựa) đoạn Km 47 + 300 – Km 53 + 800 của gói thầu XL05.
Ngày 15/11/2015, Liên danh và BOT Phả Lại ký Phụ lục hợp đồng số 0507- 01/PLHĐ-HĐXL.PL điều chỉnh số tài khoản của BOT Phả Lại.
Ngày 25/3/2016, Liên danh và BOT Phả Lại ký Phụ lục hợp đồng số 0507- 02/2016/PLHĐ-HĐXL.PL điều chỉnh số tài khoản, việc thanh toán.
Ngày 10/8/2016, Liên danh và BOT Phả Lại ký Phụ lục hợp đồng số 0507- 03/2016/PLHĐ-HĐXL.PL điều chỉnh giá trị hợp đồng và việc thanh toán đối với giá trị phát sinh được thanh toán khi chủ đầu tư phê duyệt dự toán phát sinh và ký phụ lục hợp đồng bổ sung cho khối lượng phát sinh. Kèm theo Phụ lục hợp đồng điều chỉnh số 01: Bảng khối lượng và giá hợp đồng; Phụ lục hợp đồng điều chỉnh số 02: Bảng phân chia khối lượng và giá trị hợp đồng của các thành viên liên danh.
Ngày 12/9/2016, Liên danh và BOT Phả Lại ký Phụ lục hợp đồng số 0507- 04/PLHĐ-HĐXL.PL điều chỉnh giá trị hợp đồng. Kèm theo Phụ lục hợp đồng điều chỉnh số 03: Bảng khối lượng và giá hợp đồng; Phụ lục hợp đồng điều chỉnh số 04: Bảng phân chia khối lượng và giá trị hợp đồng của các thành viên liên danh.
Ngày 31/3/2017, Liên danh và BOT Phả Lại ký Phụ lục hợp đồng số 0507- 05/2017/PLHĐ-HĐXL.PL điều chỉnh ngày khởi công, thời gian thực hiện hợp đồng; giá trị hợp đồng; việc thanh toán. Kèm theo Phụ lục hợp đồng điều chỉnh số 05: Bảng khối lượng và giá hợp đồng.
Ngày 31/5/2017, Liên danh và BOT Phả Lại ký Phụ lục hợp đồng số 0507- 06/2017/PLHĐ-HĐXL.PL điều chỉnh ngày khởi công, thời gian thực hiện hợp đồng.
Ngày 15/9/2017, Liên danh và BOT Phả Lại ký Phụ lục hợp đồng số 0507- 07/2017/PLHĐ-HĐXL.PL điều chỉnh giá hợp đồng. Kèm theo Phụ lục hợp đồng điều chỉnh số 06: Bảng khối lượng và giá hợp đồng; Phụ lục hợp đồng điều chỉnh số 07: Bảng phân khai khối lượng và giá hợp đồng.
Năm 2018, Liên danh và BOT Phả Lại ký Phụ lục hợp đồng số 0507- 08/2018/PLHĐ-HĐXL.PL điều chỉnh giá hợp đồng. Kèm theo Phụ lục hợp đồng điều cỉnh số 08: Bảng khối lượng và giá hợp đồng.
Thực hiện theo nội dung thỏa thuận tại Hợp đồng 0507/2015/HĐXL.PL và Phụ lục hợp đồng số 08, Công ty TNHH S đã hoàn thành toàn bộ khối lượng công việc theo hợp đồng. Sau đó các bên gồm: Chủ đầu tư, nhà thầu và các bên liên quan đã tiến hành nghiệm thu hoàn thành công trình để đưa vào khai thác, sử dụng theo biên bản nghiệm thu hoàn thành công trình ngày 30/9/2017.
Toàn bộ khối lượng công việc theo gói thầu Công ty TNHH S đã hoàn thành có giá trị: 32.044.390.279 đồng. Hai bên đã ký xác nhận tại hồ sơ quyết toán.
Đến thời điểm hiện tại, Công ty cổ phần BOT Phả Lại mới chỉ thanh toán cho Công ty TNHH S số tiền 22.032.427.100 đồng. Số tiền còn lại mà Công ty cổ phần BOT Phả Lại chưa thanh toán cho Công ty TNHH S là 10.011.963.179 đồng (đã bao gồm 5% giá trị bảo hành công trình). Có xác nhận của hai bên theo Biên bản đối chiếu công nợ giữa Công ty TNHH S và Công ty cổ phần BOT Phả Lại ngày 06/09/2019.
Sau khi tiến hành nghiệm thu bàn giao công trình đúng tiến độ, đảm bảo chất lượng, phía chủ đầu tư Công ty cổ phần BOT Phả Lại đã đưa ra nhiều lý do để không thanh toán cho Công ty TNHH S. Công ty cổ phần BOT Phả Lại đã vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ thanh toán theo quy định tại Hợp đồng đã ký kết giữa hai bên, gây ra những khó khăn về vốn, nguồn tài chính ảnh hưởng nghiêm trọng tới hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty TNHH S.
Nay Công ty TNHH S khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc Công ty cổ phần BOT Phả Lại thanh toán trả cho Công ty TNHH S tổng số tiền là 9.413.629.214 đồng trong đó:
- Giá trị đến 90% theo quy định tại Khoản 8.6 Điều 8 của hợp đồng là: 32.044.390.279 đồng x 90% - 22.032.427.100 đồng (giá trị đã thanh toán) = 6.807.524.151 đồng.
- Giá trị bảo hành công trình theo khoản 8.9 Điều 8 của hợp đồng là: 32.044.390.279 đồng x 5% = 1.602.219.514 đồng.
- Lãi chậm trả với mức lãi suất huy động vốn kỳ hạn 03 tháng của Ngân hàng Viettinbank theo thỏa thuận tại Khoản 20.5 Điều 20 Hợp đồng là: 1.003.885.549 đồng.
* Tại biên bản hòa giải ngày 08/7/2021 Công ty cổ phần BOT Phả Lại do người đại diện theo ủy quyền trình bày: Công ty thừa nhận về việc thời gian và nội dung ký hợp đồng như Công ty TNHH S đã trình bày. Công ty cổ phần BOT Phả Lại xác nhận đã thanh toán được một phần, số còn lại chưa thanh toán trả cho Công ty TNHH S nguyên nhân là do phía Công ty TNHH S chưa đáp ứng được một số điều kiện thanh toán. Tuy nhiên, tại buổi làm việc ngày 08/7/2021, đại diện theo ủy quyền của Công ty cổ phần BOT Phả Lại chưa xác nhận công nợ và sẽ trình bày chi tiết bằng bản tự khai gửi Tòa án.
Tại bản án sơ thẩm số 02/2022/KDTM-ST ngày 12/01/2022 của Tòa án nhân dân quận L, Hà Nội đã xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Buộc Công ty Cổ phần BOT Phả Lại phải có nghĩa vụ thanh toán số tiền là: 9.413.629.214 đồng.
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.
Không đồng ý với bản án sơ thẩm, Công ty cổ phần BOT Phả Lại có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, đề nghị hủy án sơ thẩm với lý do: Tòa án sơ thẩm đã vi phạm tố tụng khi không đưa Công ty Cổ phần tập đoàn H và Công ty Cổ phần công trình giao thông Hp tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án, làm mất đi quyền đưa ra yêu cầu phản tố của bị đơn để bù trừ nghĩa vụ chưa thanh toán (nếu có) với yêu cầu của Công ty TNHH S; không đảm bảo khách quan, chính xác, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi ích hợp pháp của Công ty cổ phần BOT Phả Lại.
Tòa án cấp sơ thẩm đã không cấp, tống đạt quyết định hoãn phiên tòa, giấy báo mở lại phiên tòa lần 2, triệu tập hợp lệ lần 2 hoặc các văn bản tố tụng khác cho người đại diện theo ủy quyền của Công ty cổ phần BOT Phả Lại là ông Đoàn Trọng B và bà Trần Như Quỳnh, làm mất đi quyền tham gia phiên tòa để bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của mình.
Bản án sơ thẩm chưa xem xét, đánh giá tài liệu, chứng cứ khách quan khi chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.Về giá trị bảo hành thì điều kiện để thanh toán là Công ty TNHH môi trường S phải hoàn thành nghĩa vụ bảo hành và đệ trình cho Công ty cổ phần BOT Phả Lại duyệt chấp nhận giấy xác nhận đã hoàn thành nghĩa vụ bảo hành theo quy định nhưng đến nay Công ty cổ phần BOT Phả Lại chưa nhận được giấy xác nhận để phê duyệt. Về lãi chậm thanh toán bản án sơ thẩm không xác định việc tính lãi chậm trả trên khoản tiền nào, thời gian bao lâu và mức lãi suất áp dụng không đúng do Ngân hàng tài trợ vốn cho dự án là Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam - Chi nhánh Hà Nội.
Tại phiên tòa hôm nay Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện; Bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Các đương sự thống nhất xác nhận ngoài các tài liệu chứng cứ đã nộp cho Tòa án ra thì không còn tài liệu chứng cứ nào khác để nộp cho Tòa án và đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội trình bày quan điểm và đề xuất hướng giải quyết vụ án:
Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng quy định của pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án từ thủ tục thụ lý vụ án, mở phiên tòa và tại phiên tòa xét xử phúc thẩm. Tại phiên tòa, đương sự đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ xét thấy không có cơ sở chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Công ty cổ phần BOT Phả Lại. Tuy nhiên tại bản án sơ thẩm tuyên buộc Công ty cổ phần BOT Phả Lại thanh toán trả cho Công ty S số tiền 9.413.629.214 đồng, nhưng không nêu rõ cụ thể số tiền Công ty BOT Phả Lại phải thanh toán là những khoản nào. Do đó cần phải sửa án sơ thẩm về cách tuyên này. Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Công ty cổ phần BOT Phả Lại; Buộc Công ty cổ phần BOT Phả Lại phải thanh toán trả cho Công ty TNHH S số tiền là 9.413.629.214 đồng bao gồm: số tiền nợ gốc là 6.807.524.151 đồng; số tiền bảo hành là: 1.602.219.514 đồng, số tiền lãi chậm thanh toán là: 1.003.885.549 đồng; Về án phí: Các đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, căn cứ kết quả hỏi và tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1].Về tố tụng: Đơn kháng cáo của Công ty cổ phần BOT Phải Lại làm trong thời hạn luật định. Người kháng cáo đã nộp tạm ứng án phí phúc thẩm, nên việc kháng cáo là hợp lệ. Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội giải quyết là đúng thẩm quyền.
Bị đơn Công ty cổ phần BOT Phả Lại kháng cáo cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm đã vi phạm tố tụng không tống đạt các văn bản tố tụng cho Công ty cổ phần BOT Phả Lại. Hội đồng xét xử xét thấy, qua kiểm tra hồ sơ vụ án, thấy quá trình giải quyết vụ án Tòa án nhân dân quận L đã thực hiện việc tống đạt các văn bản tố tụng của Tòa án theo quy định của pháp luật, cụ thể Tòa án cấp sơ thẩm đã tống đạt các văn bản tố tụng của Tòa án cho bị đơn đến địa chỉ theo đăng ký kinh doanh của Công ty cổ phần BOT Phả Lại và địa chỉ liên hệ của người đại diện theo ủy quyền của Công ty cổ phần BOT Phả Lại theo Giấy ủy quyền ngày 23/5/2021. Cụ thể do không có người nhận, nên Tòa án đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng đối với công ty cổ phần BOT Phả Lại theo địa chỉ đăng ký kinh doanh tại P1503 tầng 15 tòa nhà Plaschem, số 562 N, quận L, Hà Nội. Đối với người đại diện theo ủy quyền của Công ty cổ phần BOT Phả lại là ông Bằng, ông Thức, theo giấy ủy quyền ngày 23/5/2021 thể hiện ông Bằng, bà Quỳnh có địa chỉ tại tầng 4 tòa nhà 14 L, phường Thành Công, quận Ba Đình, Hà Nội do ông Bằng, bà Quỳnh không có mặt tại địa chỉ trên, nên Tòa án cũng đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng tại địa chỉ này. Do vậy, xét thấy việc tống đạt các văn bản tố tụng cho bị đơn đã được Tòa án cấp sơ thẩm thực hiện đúng theo quy định tại Điều 177, 178, 179 Bộ luật tố tụng dân sự.
*Về người tham gia tố tụng: Công ty cổ phần BOT Phả Lại kháng cáo cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm không đưa Công ty Cổ phần tập đoàn H và Công ty Cổ phần công trình giao thông Hp là những thành viên liên danh với Công ty TNHH S tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án làm mất đi quyền đưa ra yêu cầu phản tố của bị đơn để bù trừ nghĩa vụ chưa thanh toán (nếu có) với yêu cầu của nguyên đơn. Xét thấy, quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm, bị đơn không có văn bản thể hiện quan điểm đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không có yêu cầu phản tố, không thực hiện nghĩa vụ cung cấp tài liệu, chứng cứ để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình theo quy định pháp luật, nên Tòa án cấp sơ thẩm không có căn cứ xem xét, giải quyết trong trường hợp có nghĩa vụ liên đới của thành viên liên danh với Chủ đầu tư để đối trừ nghĩa vụ theo hợp đồng số 0507/2015/HĐXL.PL. Công ty cổ phần BOT Phả Lại sẽ được khởi kiện đối với các thành viên còn lại của Liên danh liên quan đến việc thi công theo hợp đồng số 0507/2015/HĐXL.PL bằng vụ kiện khác khi có đủ tài liệu, chứng cứ chứng minh cho quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Hơn nữa, trước khi ký Hợp đồng số 0507/2015/HĐXL.PL, ba công ty gồm Công ty TNHH S, Công ty cổ phần Tập đoàn H và Công ty cổ phần công trình giao thông Hp đã ký Thỏa thuận liên danh ngày 01/7/2015 để thành lập liên danh. Tại mục 2 Điều 2 quy định: "Các thành viên trong liên danh độc lập về nhân lực, thiết bị và tài chính để thực hiện thi công gói thầu …….Nếu Liên danh trúng thầu, khối lượng, giá trị các công việc của từng thành viên trong liên danh sẽ được cụ thể trong hợp đồng thi công xây dựng". Ngày 15/7/2015 các bên liên danh và Công ty cổ phần BOT Phả Lại ký Hợp đồng thi công xây dựng số 0507/2015/HĐXL.PL tại Điều 5 của hợp đồng đã phân chia hạng mục thi công của các thành viên liên danh nhà thầu cụ thể:
“ + Công ty TNHH MT và xây dựng S chịu trách nhiện thi công toàn bộ các hạng mục liên quan đến nền đường, móng đường, cống, hệ thống thoát nước và các hạng mục khác ( Trừ hạng mục mặt đường bê tông nhựa) đoạn Km47+300- Km53+3800 của gói thầu XL05;
+ Công ty cổ phần tập đoàn H chịu trách nhiệm thi công toàn bộ các hạng mục liên quan đến nền đường, móng đường, cống, hệ thống thoát nước và các hạng mục khác ( Trừ các hạng mục mặt đường bê tông nhựa) đoạn Km46+300- Km47+ 3800 của gói thầu XL05;
+ Công ty cổ phần công trình giao thông Hp chịu trác nhiệm thi công toàn bộ hạng mục mặt đường bên tông nhựa của gói thầu XL05;….”.
Điều này thể hiện tại thời điểm các bên ký kết hợp đồng đã xác định công việc của từng thành viên liên danh và cũng đã phân tách rõ giá trị công việc của từng thành viên liên danh. Hơn nữa các tài liệu nghiệm thu và bảng chốt khối lượng của các bên đều thể hiện giữa Công ty TNHH S và Công ty cổ phần BOT Phả Lại đã chốt khối lượng và nghiệm thu phần công việc mà Công ty TNHH S thực hiện như đã thỏa thuận và được xác định ở trên.
Tại khoản 1.2 Điều 1; điểm s khoản 11.2 Điều 11 của Hợp đồng số 0507/2015/HĐXL.PL chỉ quy định về trách nhiệm liên đới của thành viên liên danh với Chủ đầu tư, không có bất kỳ thỏa thuận nào trong hợp đồng liên quan đến quyền khởi kiện khi có tranh chấp buộc tất cả thành viên liên danh phải cùng tham gia.
Mặt khác, quá trình giải quyết và tại phiên tòa hôm nay Công ty cổ phần BOT Phả Lại cũng không đưa ra được chứng cứ chứng minh về việc Công ty cổ phần môi trường và xây dựng S phải liên đới chịu trách nhiệm về bất ký một vấn đề gì của các thành viên liên danh.
Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội cũng đã có công văn gửi Công ty cổ phần Tập đoàn H và Công ty cổ phần công trình giao thông Hải Phòng. Ngày 8/9/2022, Công ty cổ phần tập đoàn H đã có Công văn số 45/VB-HH trả lời với nội dung: “ Công ty cổ phần tập đoàn H không liên quan đến phần công việc giá trị thực hiện thi công gói thầu đã được chủ đầu tư nghiệm thu cho Công ty TNHH S là 32.044.390.279 đồng; Số tiền Công ty TNHH S khởi kiện yêu cầu Công ty cổ phần BOT Phả Lại thanh toán không liên quan đến quyền lợi ích hợp pháp của Công ty cổ phần Tập đoàn Hoàng Hà; Công ty hoàn toàn nhất trí với việc Công ty TNHH môi trường Xây dựng S khởi kiện …..”.
Từ những căn cứ trên xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm không đưa Công ty cổ phần Tập đoàn H và Công ty cổ phần công trình giao thông Hp vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.
[2].Về nội dung: Xét yêu cầu kháng cáo của Bị đơn. Hội đồng xét xử xét thấy Các tài liệu có trong hồ sơ thể hiện:
Ngày 15/07/2015, Công ty cổ phần BOT Phả Lại và Liên danh các nhà thầu bao gồm Công ty TNHH môi trường và xây dựngS, Công ty cổ phần Tập đoàn Hoàng Hà; Công ty cổ phần công trình giao thông Hp đã ký kết Hợp đồng thi công xây dựng số 0507/2015/HĐXL.PL và các phụ lục hợp đồng số 0507- 01/PLHĐ-HĐXL.PL ngày 15/11/2015; Phụ lục hợp đồng số 0507-02/2016/PLHĐ- HĐXL.PL ngày 25/3/2016; Phụ lục hợp đồng số 0507-03/2016/PLHĐ-HĐXL.PL ngày 10/8/2016; Phụ lục hợp đồng số 0507-04/PLHĐ-HĐXL.PL ngày 12/9/2016; Phụ lục hợp đồng số 0507-05/2017/PLHĐ-HĐXL.PL ngày 31/3/2017; Phụ lục hợp đồng số 0507-06/2017/PLHĐ-HĐXL.PL ngày 31/5/2017; Phụ lục hợp đồng số 0507-07/2017/PLHĐ-HĐXL.PL ngày 15/9/2017; Phụ lục hợp đồng số 0507- 08/2018/PLHĐ-HĐXL.PL. Xét thấy, Hợp đồng thi công xây dựng và các phụ lục Hợp đồng được các bên ký kết trên cơ sở tự nguyện, về hình thức và nội dung phù hợp với quy định của pháp luật, nên phát sinh hiệu lực đối với các bên.
Như đã phân tích ở trên thì theo thỏa thuận tại Điều 5 của Hợp đồng số 0507/2015/HĐXL.PL ngày 15/7/2015 và các phụ lục Hợp đồng thì các bên đã thống nhất phân định các công việc cụ thể của từng liên danh, cụ thể Công ty TNHH S phải chịu trách nhiện thi công toàn bộ các hạng mục liên quan đến nền đường, móng đường, cống, hệ thống thoát nước và các hạng mục khác ( Trừ hạng mục mặt đường bê tông nhựa) đoạn Km47+300- Km53+3800 của gói thầu XL05.
Quá trình thực hiện Hợp đồng, Công ty S đã thi công hoàn thành xong các phần công việc như các bên đã thỏa thuận trong Hợp đồng, các phụ lục hợp đồng và đã được chủ đầu tư Công ty cổ phần BOT Phả Lại nghiệm thu theo biên bản nghiệm thu hoàn thành công trình ngày 30/9/2017 (BL 139). Sau khi nghiệm thu công trình Công ty cổ phần BOT Phả lại đã đưa công trình vào khai thác, hoạt động. Quá trình giải quyết và tại phiên tòa các đương sự đều xác nhận công trình đã được đưa vào sử dụng từ năm 2017.
Theo hồ sơ quyết toán giữa chủ đầu tư Công ty cổ phần BOT Phả Lại và Công ty S thể hiện giá trị quyết toán là: 32.044.390.279 đồng. Căn cứ hồ sơ quyết toán, Biên bản nghiệm thu hoàn thành công trình ngày 30/9/2017, Biên bản đối chiếu công nợ ngày 06/9/2019 thể hiện tính đến ngày 31/12/2017 Công ty cổ phần BOT Phả Lại còn nợ Công ty TNHH S 10.011.963.179 đồng, nhưng cho đến nay Công ty cổ phần BOT Phả Lại vẫn chưa thanh thoán trả cho Công ty TNHH S số tiền này là vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo quy định của pháp luật và vi phạm thỏa thuận tại khoản 8.6 Điều 8 Hợp đồng số 0507/2015/HĐXL.PL ngày 15/7/2015 và khoản 2.2 Điều 2 phụ lục hợp đồng số 0507-02/2016/PLHĐ-HĐXL ngày 31/3/2017.
Tại khoản 8.6 Điều 8 Hợp đồng số 0507/2015/HĐXL.PL ngày 15/7/2015 quy định: "Nhà thầu chỉ được thanh toán tối đa đến 90% giá trị khối lượng công việc hoàn thành (bao gồm cả tạm ứng, 10% giá trị khối lượng còn lại sẽ được thanh toán theo Điều 22.." và khoản 22.1 Điều 22 Hợp đồng số 0507 quy định: "..Nhà thầu sẽ được nhận tiền thanh toán đến 95% giá trị quyết toán được phê duyệt (sau khi giảm trừ giá trị thanh toán theo các đợt và giá trị tạm ứng nếu có), 5% giá trị còn lại được Chủ đầu tư giữ lại để đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa vụ bảo hành của nhà thầu" nên Công ty TNHH S yêu cầu Công ty cổ phần BOT Phả Lại thanh toán số tiền còn lại tối đa mà Công ty TNHH S được nhận trước khi được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt quyết toán là 10.011.963.179 đồng - 10% x 32.044.390.279 đồng = 6.807.524.151 đồng. Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện này của nguyên đơn có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.
+ Về giá trị bảo hành công trình: Theo quy định tại khoản 18.2 Điều 18 Hợp đồng số 0507/2015/HĐXL.PL ngày 15/7/2015 thời hạn bảo hành công trình là 36 tháng kể từ ngày ký biên bản nghiệm thu công trình và giá trị bảo hành công trình tương đương 5% giá trị hợp đồng theo quy định tại khoản 8.9 Điều 8 Hợp đồng số 0507/2015/HĐXL.PL ngày 15/7/2015. Biên bản nghiệm thu công trình được Công ty cổ phần BOT Phả Lại và Công ty TNHH S ký kết ngày 30/9/2017, từ sau ngày 30/9/2017 phía Công ty TNHH S không nhận được bất kỳ thông báo, yêu cầu gì từ phía Công ty cổ phần BOT Phả Lại yêu cầu bảo hành, hơn nữa đến nay đã hết thời hạn bảo hành công trình theo thỏa thuận trong hợp đồng. Do vậy Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của Công ty TNHH S buộc Công ty cổ phần BOT Phả Lại phải thanh toán trả cho Công ty TNHH S 1.602.219.514 đồng là có căn cứ.
+ Về lãi chậm trả: Theo quy định tại khoản 20.5 Điều 20 Hợp đồng 0507/2015/HĐXL.PL ngày 15/7/2015 quy định "Trường hợp Chủ đầu tư chậm thanh toán theo khoản 8.3 Điều 8 thì Chủ đầu tư phải chịu thêm phần chi phí bằng giá trị thanh toán chậm nhân với lãi suất huy động vốn kỳ hạn 03 tháng của Ngân hàng tài trợ vốn cho dự án tại thời điểm phải thanh toán".
Căn cứ Văn bản số 43/BOT.PL ngày 15/5/2020 của Công ty cổ phần BOT Phả Lại (Bút lục 84) thì Ngân hàng tài trợ vốn cho dự án tại thời điểm thanh toán là Ngân hàng Vietinbank chi nhánh thành phố Hà Nội. Khoản 2 Điều 3 Thông tư 21/2013/TT-NHNN quy định chi nhánh là đơn vị phụ thuộc của Ngân hàng thương mại nên mức lãi suất huy động đều phải tuân thủ Ngân hàng thương mại. Bản án sơ thẩm căn cứ mức lãi suất huy động của Ngân hàng Vietinbank là hoàn toàn phù hợp, không trái quy định pháp luật và thỏa thuận các bên tại hợp đồng.
Đối chiếu bảng tính giá trị phạt hợp đồng do nguyên đơn xuất trình và biên bản đối chiếu công nợ ngày 06/9/2019, Hội đồng xét xử xét thấy từ ngày 01/01/2018 Công ty cổ phần BOT Phả Lại đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán. Do đó Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH S buộc Công ty cổ phần BOT Phả Lại phải thanh toán trả cho Công ty TNHH S số tiền lãi chậm trả 1.003.885.549 đồng là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.
Từ những phân tích trên xét thấy không có căn cứ chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Công ty cổ phần BOT Phả Lại.
Tuy nhiên bản án sơ tuyên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH S và buộc Công ty cổ phần BOT Phả Lại phải thanh toán trả cho Công ty TNHH S số tiền 9.413.629.241 đồng, nhưng không ghi rõ cụ thể bao gồm những khoản tiền nào, nên cần phải sửa án sơ thẩm về cách tuyên này.
Đề nghị của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ nên được chấp nhận.
Về án phí: Do yêu cầu kháng cáo của Công ty cổ phần BOT Phả Lại không được chấp nhận, nên Công ty cổ phần BOT Phả Lại phải chịu án phí theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng: Khoản 1 Điều 30, 220; khoản 2 Điều 308, Điều 309 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
Áp dụng khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
Áp dụng Điều 138,139,141,143,144 Luật Xây dựng năm 2014.
Áp dụng nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Sửa bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 02/2022/KDTM-ST ngày 12/01/2022 của Tòa án nhân dân quận L, thành phố Hà Nội.
Xử:
1.Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH S đối với Công ty cổ phần BOT Phả Lại.
2. Buộc Công ty cổ phần BOT Phả Lại phải thanh toán trả cho Công ty TNHH S 9.413.629.214 đồng. Trong đó số tiền nợ khối lượng hoàn thành là 6.807.524.151 đồng; số tiền bảo hành là 1.602.219.514 đồng; số tiền lãi chậm thanh toán là 1.003.885.549 đồng.
3. Về án phí :
+ Án phí sơ thẩm: Công ty cổ phần BOT Phả Lại phải chịu 117.413.629 đồng án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm.
Hoàn trả cho Công ty TNHH S 57.403.760 đồng tiền tạm ứng án phí Công ty đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0064617 ngày 11/5/2021 của Chi cục thi hành án quận L, thành phố Hà Nội.
+ Án phí phúc thẩm: Công ty cổ phần BOT Phả Lại phải chịu 2.000.000 đồng án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm được trừ vào 2.000.000 đồng tiền tạm ứng án phí công ty đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0065019 ngày 14/4/2022 của chi cục thi hành án quận L, thành phố Hà Nội.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án không thi hành án đối với số tiền phải thanh toán, thì người phải thi hành án phải chịu lãi suất đối với số tiền chậm thanh toán tương ứng với thời gian chậm thanh toán theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 cho đến khi thi hành xong bản án.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự;
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 194/2022/KDTM-PT về tranh chấp hợp đồng xây dựng
Số hiệu: | 194/2022/KDTM-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Nội |
Lĩnh vực: | Kinh tế |
Ngày ban hành: | 09/11/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về