Bản án 194/2020/HS-ST ngày 23/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BẾN CÁT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 194/2020/HS-ST NGÀY 23/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 198/2020/TLST-HS ngày 11 tháng 9 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 195/2020/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 9 năm 2020 đối với bị cáo:

Trần Văn P, sinh năm 1986, tại tỉnh Cà Mau; hộ khẩu thường trú: Ấp 7, xã N, huyện U, tỉnh Cà Mau; chỗ ở: Khu phố 6, phường T, thị xã B, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Trần Văn M (đã chết) và bà Phạm Thị H:

Tiền án:

- Ngày 13/5/2014, Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương xử phạt Trần Văn P 05 tháng 28 ngày tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 09/2014/HSST, P được trả tự do ngay tại phiên tòa và đã nộp án phí ngày 25/8/2014.

- Ngày 10/8/2016, Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương xử phạt Trần Văn P 05 năm tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản” và tội “Bắt người trái pháp luật” theo Bản án số 121/2016/HSST, Phúc chấp hành xong hình phạt tù từ ngày 31/01/2019 và đã nộp án phí ngày 24/10/2016.

Tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/5/2020 cho đến nay; có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 09 giờ 30 phút ngày 20/5/2020 tại phòng số 03, nhà trọ không tên cạnh đường T, khu phố 6, phường T, thị xã B, tỉnh Bình Dương, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thị xã Bến Cát phối hợp Công an phường Thới Hòa bắt quả tang Trần Văn P đang ngồi sát vách tường phía bên phải hướng từ cửa phòng nhìn vào, dưới nền gạch ngay vị trí P ngồi có một gói giấy màu trắng cuộn lại bên trong có 02 (hai) bịch nylon hàn kín, 01 (một) bịch nylon miệng kéo dính hàn kín đều chứa tinh thể màu trắng và một hộp sắt hình chữ nhật bên trong có 01 (một) bịch nylon màu xanh hàn kín chứa tinh thể màu trắng. P khai nhận bốn bịch nylon chứa ma túy đá nên lực lượng Công an tiến hành niêm phong thu giữ vật chứng và bắt giữ P.

Quá trình điều tra, Trần Văn P khai nhận: Khoảng 17 giờ ngày 18/5/2020, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên P thuê xe mô tô đi đến khu vực đường D12 thuộc phường Mỹ Phước, thị xã Bến Cát gặp một người phụ nữ tên Thư (không rõ nhân thân, lai lịch) hỏi mua 3.000.000đ (ba triệu đồng) ma túy đá, Thư đưa cho P một bịch ma túy, P cất bịch ma túy vào túi quần bên phải, phía trước P đang mặc, rồi P thuê xe mô tô đi về phòng trọ của P tại phòng số 03, nhà trọ không tên cạnh đường T, khu phố 6, phường T, thị xã B, tỉnh Bình Dương. Tại phòng trọ, P lấy bịch ma túy đã mua ra phân chia thành 02 (hai) bịch nylon hàn kín, 01 (một) bịch nylon miệng kéo dính hàn kín và 05 (năm) bịch nylon màu xanh hàn kín, còn lại một ít ma túy trong bịch ban đầu P sử dụng hết. Sau đó, P bỏ 02 (hai) bịch nylon hàn kín, 01 (một) bịch nylon miệng kéo dính hàn kín vào một gói giấy màu trắng cuộn lại và 05 (năm) bịch nylon màu xanh hàn kín vào một hộp sắt hình chữ nhật, rồi P cất giấu gói giấy và hộp sắt sát vách tường phía bên phải hướng từ cửa phòng nhìn vào. Ngày 19/5/2020, P tiếp tục lấy 04 (bốn) bịch nylon màu xanh hàn kín bên trong hộp sắt hình chữ nhật sử dụng. Đến khoảng 09 giờ 30 phút ngày 20/5/2020, P đang ngồi sát vách tường phía bên phải hướng từ cửa phòng nhìn vào và số ma túy còn lại vẫn để vị trí như ban đầu thì bị lực lượng Công an bắt quả tang.

Theo Kết luận giám định số 310/MT-PC09 ngày 26/5/2020 và số 310BS/MT-PC09 ngày 29/5/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng gửi giám định đều là ma tuý, loại Methamphetamine; mẫu tinh thể màu trắng trong một bịch nylon hàn kín màu xanh có khối lượng 0,1386 gam (M1); mẫu tinh thể màu trắng trong một bịch nylon miệng kéo dính hàn kín có khối lượng 0,3752 gam (M2-1); mẫu tinh thể màu trắng trong một bịch nylon hàn kín có khối lượng 1,2542 gam (M2-2); mẫu tinh thể màu trắng trong một bịch nylon hàn kín có khối lượng 1,4077 gam (M2- 3). Mẫu vật sau giám định được niêm phong, khối lượng: M1 = 0,0938 gam, M2- 1 = 0,3298 gam, M2-2 = 1,1889 gam, M2-3 = 1,3647 gam.

Tổng khối lượng ma túy loại Methemphetamine mà bị cáo tàng trữ là 3,1757 gam.

Tại bản Cáo trạng số 204/CT-VKSBC ngày 09 tháng 9 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo về tội “tàng trữ trái pháp chất ma túy” theo điểm o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát tham gia phiên tòa trình bày lời luận tội có nội dung vẫn giữ nguyên quyết định Cáo trạng đã truy tố, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo gây ra và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017: Xử phạt bị cáo Trần Văn P mức án từ 05 năm 06 tháng đến 06 năm tù.

Về vật chứng:

Đề nghị tịch thu tiêu hủy:

- 01 Bì thư dán kín số 310/PC09(M1) được niêm phong có hình dấu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, bên trong có chứa 0,0938 gam Methamphetamine (theo Kết luận giám định số 310/MT – PC09 ngày 26/5/2020):

- 01 Bì thư dán kín số 310/PC09(M2) được niêm phong có hình dấu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, bên trong có chứa 2,8834 gam Methamphetamine (theo Kết luận giám định số 310/MT – PC09 ngày 26/5/2020).

- 01 hộp sắt hình chữ nhật.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến gì về quyết định truy tố và bản luận tội của Viện Kiểm sát.

Bị cáo nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Bến Cát, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như bản Cáo trạng truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo và các chứng cứ, tài liệu đã thu thập tại hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Ngày 20/5/2020, Trần Văn P có hành vi cất giấu tinh thể màu trắng để sử dụng trong:

- Hai bịch nylon hàn kín bên trong một gói giấy màu trắng cuộn lại:

- Một bịch nylon miệng kéo dính hàn kín:

- Một bịch nylon màu xanh hàn kín trong một hộp sắt hình chữ nhật.

Tại tại phòng số 03, nhà trọ không tên cạnh đường T, khu phố 6, phường T, thị xã B, tỉnh Bình Dương.

Theo Kết luận giám định số 310/MT-PC09 ngày 26/5/2020 và số 310BS/MT-PC09 ngày 29/5/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng trong các bịch ny lon hàn kín nêu trên gửi giám định đều là ma tuý, loại Methamphetamine; mẫu tinh thể màu trắng trong một bịch nylon hàn kín màu xanh có khối lượng 0,1386 gam (M1); mẫu tinh thể màu trắng trong một bịch nylon miệng kéo dính hàn kín có khối lượng 0,3752 gam (M2-1); mẫu tinh thể màu trắng trong một bịch nylon hàn kín có khối lượng 1,2542 gam (M2-2); mẫu tinh thể màu trắng trong một bịch nylon hàn kín có khối lượng 1,4077 gam (M2-3). Mẫu vật sau giám định được niêm phong, khối lượng: M1 = 0,0938 gam, M2-1 = 0,3298 gam, M2-2 = 1,1889 gam, M2-3 = 1,3647 gam.

Tổng khối lượng ma túy loại Methemphetamine mà bị cáo tàng trữ là 3,1757 gam.

Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục các chất ma túy được dùng hạn chế trong phân tích, kiểm nghiệm, nghiên cứu khoa học, điều tra tội phạm hoặc trong lĩnh vực y tế theo quy định của nhà nước. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

Bị cáo đã từng bị Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát xử phạt 05 tháng 28 ngày tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 09/2014/HSST ngày 13/5/2014. Bị cáo chưa được xóa án tích thì đến ngày 10/8/2016, bị cáo lại tiếp tục bị Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương xử phạt 05 năm tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản” và tội “Bắt người trái pháp luật” theo Bản án số 121/2016/HSST. Bị cáo chưa được xóa án tích thì ngày 20/5/2020, bị cáo có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Do đó, bị cáo phạm tội theo tình tiết định khung hình phạt là tái phạm nguy hiểm.

Như vậy, Cáo trạng số 204/CT-VKSBC ngày 09 tháng 9 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương và kết luận của Kiểm sát viên đề nghị truy tố bị cáo về tội “tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm o khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; bị cáo hoàn toàn đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

[3] Hành vi của bị cáo đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý đồng thời còn xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Do đó cần có một hình phạt thật nghiêm tương xứng với hành vi của bị cáo nhằm cải tạo giáo dục bị cáo thành người tốt và góp phần răn đe ngăn ngừa chung.

[4] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo được cân nhắc, xem xét khi quyết định hình phạt: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải nên Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Về vật chứng:

Cần tịch thu tiêu hủy:

- 01 Bì thư dán kín số 310/PC09(M1) được niêm phong có hình dấu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, bên trong có chứa 0,0938 gam Methamphetamine (theo Kết luận giám định số 310/MT – PC09 ngày 26/5/2020):

- 01 Bì thư dán kín số 310/PC09(M2) được niêm phong có hình dấu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, bên trong có chứa 2,8834 gam Methamphetamine (theo Kết luận giám định số 310/MT – PC09 ngày 26/5/2020).

- 01 hộp sắt hình chữ nhật.

[7] Đối với người phụ nữ tên Thư (không rõ nhân thân, lai lịch) có hành vi bán ma túy cho Phúc, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Bến Cát tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

[8] Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát là phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[9] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Tuyên bố bị cáo Trần Văn P phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Trần Văn P 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 20/5/2020.

2. Về vật chứng: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Tịch thu tiêu hủy:

- 01 Bì thư dán kín số 310/PC09(M1) được niêm phong có hình dấu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, bên trong có chứa 0,0938 gam Methamphetamine (theo Kết luận giám định số 310/MT – PC09 ngày 26/5/2020):

- 01 Bì thư dán kín số 310/PC09(M2) được niêm phong có hình dấu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, bên trong có chứa 2,8834 gam Methamphetamine (theo Kết luận giám định số 310/MT – PC09 ngày 26/5/2020).

- 01 hộp sắt hình chữ nhật.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 10/9/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Bến Cát).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Trần Văn P phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

Bị cáo được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 194/2020/HS-ST ngày 23/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:194/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Bến Cát - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;