Bản án 19/2024/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG HƯNG, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 19/2024/HS-ST NGÀY 27/03/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 26/2024/TLST- HS ngày 13 tháng 3 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 23/2024/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 3 năm 2024 đối với:

1. Bị cáo: Phạm Tân T, sinh năm1993; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không; Nơi cư trú: Thôn K H, xã Đ K, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 10/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Phạm Khánh T1, sinh năm 1960 và bà Phạm Thị S, sinh năm 1963; chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Bản án số 189 ngày 14/11/2013 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình xử phạt Phạm Tân T 06 tháng tù về tội “Hủy hoại tài sản“, thời hạn tù tính từ ngày 14/8/2013. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 14/02/2014. Chấp hành xong án phí hình sự ngày 15/5/2014; Bị tạm giữ từ ngày 19/12/2023 đến ngày 25/12/2023 chuyển tạm giam.

2. Người chứng kiến:

- Ông Lê Hồng Ph - Sinh năm 1974.

- Ông Vũ Văn L - Sinh năm 1959.

Đều cư trú tại: Thôn L, xã Đ, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình.

(Có mặt bị cáo; vắng mặt anh Ph, ông L)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ ngày 18/12/2023, Phạm Tân T đi bộ đến nhà Phan Tuấn L ở thôn Duyên Hà, xã Đông Kinh, huyện Đông Hưng mượn xe mô tô của L đi đến khu vực cổng Công ty Tân Đệ, xã Đ để mua ma tuý về sử dụng. Khi đến cổng Công ty Tân Đệ, Tiến gặp một người đàn ông khoảng 30 tuổi, không biết tên, địa chỉ mua 300.000 đồng được 01 túi nilon trong suốt có mép cài, viền màu xanh, Tiến cất túi nilon vào túi áo khoác bên phải đang mặc rồi điều khiển xe mô tô để đi về nhà. Khi đi đến khu vực ngã ba trục đường thôn L, xã Đ, huyện Đông Hưng thì Cơ quan điều tra, Công an huyện Đông Hưng đang làm nhiệm vụ nghi ngờ Tiến có liên quan đến tội phạm về ma túy nên yêu cầu dừng lại để kiểm tra. Trước sự chứng kiến của ông Lê Hồng Ph và ông Vũ Văn L, Tiến đã tự nguyện lấy từ túi áo khoác bên phải đang mặc giao nộp cho tổ công tác 01 túi nilon bên trong có chứa chất dạng tinh thể trong suốt. Cơ quan điều tra đã quản lý niêm phong túi ma túy và quản lý 01 xe mô tô biển số 17B3 - X. Tiến hành kiểm tra người Tiến và xe mô tô, không phát hiện thu giữ gì. Cơ quan điều tra mời người chứng kiến và dẫn giải Tiến về trụ sở Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện Đông Hưng tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và lập biên bản quản lý, niêm phong vật chứng.

Bản kết luận giám định số 1826/KL-KTHS ngày 22/12/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Thái Bình kết luận: Mẫu vật gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 0,2646 gam.

Bản cáo trạng số 26/CT-VKSĐH ngày 13 tháng 3 năm 2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hưng truy tố bị cáo Phạm Tân T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Phạm Tân T thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng đã kết luận và bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hưng giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố: Bị cáo Phạm Tân T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 50 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Phạm Tân T từ 01 năm 09 tháng tù đến 02 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 19/12/2023. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy số ma túy thu giữ của bị cáo Phạm Tân T được hoàn lại sau giám định.

- Về án phí: Bị cáo Phạm Tân T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận với luận tội của Kiểm sát viên.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo ân hận về hành vi phạm tội của bị cáo, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức án nhẹ nhất để bị cáo sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đông Hưng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hưng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên toà bị cáo Phạm Tân T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố: Khoảng 21 giờ ngày 18/12/2023, bị cáo mượn xe mô tô của anh Phan Tuấn L lên khu vực cổng Công ty Tân Đệ, xã Đ mua của 01 người đàn ông không biết tên, địa chỉ 01 gói ma tuý loại Methamphetamine với giá 300.000 đồng mục đích về sử dụng. Khi bị cáo đi về đến khu vực thô n L, xã Đ thì bị Cơ quan điều tra Công an huyện Đông Hưng bắt quả tang thu giữ tang vật.

[3] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của người chứng kiến ông Lê Hồng Ph và ông Vũ Văn L. Ngoài ra còn được chứng minh bằng các tài liệu: Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an huyện Đông Hưng lập hồi 22 giờ 15 phút ngày 18/12/2023 tại trụ sở Uỷ ban nhân dân xã Đ; Biên bản niêm phong đồ vật; Bản ảnh vật chứng; Bản kết luận giám định số 1826/KL-KTHS ngày 22/12/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

[4] Do đó có đủ cơ sở kết luận: Hành vi của bị cáo Phạm Tân T mua khối lượng 0,2646 gam Methamphetamine, mục đích để sử dụng đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự như Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hưng đã truy tố là đúng pháp luật.

Tội phạm và hình phạt được quy định như sau:

Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

[5] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất gây nghiện của Nhà nước, làm mất trật tự trị an xã hội, là nguồn gốc lây nhiễm căn bệnh HIV-AIDS, làm suy yếu sức khoẻ con người, gây ảnh hưởng xấu về nhiều mặt cho đời sống kinh tế cũng như đạo đức xã hội và nguồn gốc phát sinh những loại tội phạm khác, gây dư luận bất bình trong quần chúng nhân dân. Bị cáo đã 01 lần bị kết án nhưng không lấy đó làm bài học sửa chữa sai phạm mà tiếp tục phạm tội. Do đó, cần xử phạt bị cáo mức án phù hợp với hành vi phạm tội của bị cáo nhằm răn đe phòng ngừa tội phạm chung.

[6] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[6.1] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

[6.2] Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[7] Căn cứ vào tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, cần xử phạt cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo thành công dân có ích cho xã hội.

[8] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo tàng trữ ma túy mục đích để sử dụng, khối lượng ma túy bị cáo tàng trữ không lớn, bị cáo lao động tự do, thu nhập không ổn định, vì vậy, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[9] Về vật chứng vụ án:

[9.1] Số ma túy thu giữ của bị cáo còn lại sau giám định là vật Nhà nước cấm tàng trữ, cần tịch thu tiêu hủy.

[9.2] Qua xác minh anh Phan Tuấn L không biết bị cáo mượn xe mô tô để đi mua ma tuý nên Cơ quan điều tra đã trả lại xe mô tô cho anh L là phù hợp pháp luật.

[10] Quá trình điều tra không xác định được người bán ma túy cho bị cáo là ai, do đó không có căn cứ để điều tra, xử lý là đúng pháp luật.

[11] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[12] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phạm Tân T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 50 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Phạm Tân T 02 (hai) năm tù thời hạn tù tính từ ngày 19/12/2023.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 0,2093g Methamphetamine thu giữ của bị cáo Phạm Tân T hoàn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 1826/KL-KTHS ngày 22/12/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình có đặc điểm như trong Biên bản giao, nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 13/3/2024 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình.

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí Toà án.

Bị cáo Phạm Tân T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Phạm Tân T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

11
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 19/2024/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:19/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Hưng - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;