Bản án 19/2024/HS-ST về tội chứa mại dâm

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN KIẾN AN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 19/2024/HS-ST NGÀY 27/03/2024 VỀ TỘI CHỨA MẠI DÂM

Ngày 27 tháng 03 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Kiến An, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 24/2024/TLST- HS ngày 14 tháng 3 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 33/2024/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 3 năm 2024 đối với bị cáo:

Vũ Hồng Nh, sinh ngày 20 tháng 02 năm 1959 tại Hải Phòng; nơi ĐKHKTT: Số 42/1/136 P, phường N, quận L, thành phố Hải Phòng; tạm trú tại: Số 101 đường Q, phường L, quận K, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Văn Ú và bà Phạm Thị T, đều đã chết; có chồng là Nguyễn Ngọc S (đã ly hôn); có 01 con, sinh năm 1978; tiền án: Có 01 tiền án: Bản án số 117/HSST ngày 25/9/1992 của Tòa án nhân dân quận N, thành phố Hải Phòng xử phạt 06 tháng tù về tội Chứa mại dâm (chưa xóa án tích); tiền sự: Không; nhân thân: Bản án số 23/2014/HSST ngày 04/04/2014 của Tòa án nhân dân quận Kiến An, thành phố Hải Phòng xử phạt 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội Chứa mại dâm (đã xóa án tích); tạm giữ từ ngày 16/6/2023 đến ngày 23/6/2023 được thay đổi biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ ngày 16/6/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Kiến An tiến hành kiểm tra hành chính quán cà phê tẩm quất H tại địa chỉ số 101 đường Q, phường L, quận K, Hải Phòng do Vũ Hồng Nh là chủ cơ sở thì phát hiện Cao Văn G (sinh năm 1984; trú tại số 06/101 phố P, phường Đ, quận K, Hải Phòng) đang có hành vi mua bán dâm với Hoàng Thị H (sinh năm 1985; trú tại thôn M, xã V, huyện B, Hà Nội) tại phòng nghỉ số 03 của quán. Ngoài ra, trong quán còn có Vũ Hồng Nh và 2 nhân viên là Đinh Thị L (sinh năm 1988; trú tại thôn Đ, xã T, huyện T, tỉnh Phú Thọ), Nguyễn Thị H (sinh năm 1985; trú tại thôn T, xã M, huyện L, tỉnh Yên Bái). Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Kiến An đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nh.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Vũ Hồng Nh khai nhận: Khoảng đầu năm 2023, Nh kinh doanh quán cà phê tẩm quất H tại số 101 đường Q, phường L, quận K, Hải Phòng. Do quán vắng khách, nên Nh nảy sinh ý định sử dụng địa điểm quán cà phê làm địa điểm bán dâm để kiếm lợi nhuận. Sau đó, Nh thỏa thuận với các nhân viên của quán là Nguyễn Thị H, Đinh Thị L, Hoàng Thị H về việc bán dâm cho khách có nhu cầu. Mỗi lần bán dâm sẽ thu của khách 200.000 đồng. Số tiền này Nh được hưởng 100.000 đồng, nhân viên bán dâm được hưởng 100.000 đồng. Đến khoảng 21 giờ 45 phút ngày 16/6/2023, Cao Văn G đến mua dâm với Hoa. Khi G và H đang thực hiện hành vi mua bán dâm tại phòng nghỉ số 03 của quán cà phê tẩm quất Hồng Nh thì bị cơ quan Công an kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang như đã nêu trên.

Cao Văn G khai nhận: Do biết quán cà phê tẩm quất H có nhân viên bán dâm tại quán. Nên khoảng 21 giờ 45 phút ngày 16/6/2023, G một mình đến quán cà phê để mua dâm. Khi vào quán, G gặp Vũ Hồng Nh, Nguyễn Thị H, Đinh Thị L và Hoàng Thị H. Nh thỏa thuận với Giáp, giá 01 lần mua dâm với nhân viên tại quán của Nh là 200.000 đồng và Nh nói “Cháu chỉ ai thì người ấy vào”. G chọn H. H dẫn Gi vào phòng nghỉ số 03 của quán để mua bán dâm. Khi G và H đang mua bán dâm thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Kiến An bắt quả tang. 01 bao cao su đã qua sử dụng bị thu giữ là bao cao su G đã sử dụng quan hệ tình dục với H.

Tại bản Cáo trạng số 28/CT-VKSKA ngày 14 tháng 03 năm 2024 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Kiến An, thành phố Hải Phòng truy tố bị cáo Vũ Hồng Nh về tội “Chứa mại dâm” theo khoản 1 Điều 327 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Vũ Hồng Nh khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng đã nêu, và trình bày Viện kiểm sát nhân dân quận Kiến An truy tố bị cáo về tội “Chứa mại dâm” theo khoản 1 Điều 327 Bộ luật Hình sự là đúng.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Kiến An vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Nhung như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ khoản 1 Điều 327; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Vũ Hồng Nh từ: 24 đến 30 tháng tù về tội “Chứa mại dâm”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đối với 01 tiền án tại Bản án số 117/HSST ngày 25/9/1992 của Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng xử phạt 06 tháng tù về tội Chứa mại dâm do bị cáo Nh tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội lần này chưa thực hiện việc nộp án phí hình sự sơ thẩm của bản án trên nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, cân nhắc để đánh giá việc xoá án tích của tiền án này.

Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo Nhung.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy: 35 bao cao su chưa qua sử dụng và 03 bao cao su đã qua sử dụng.

Về án phí: Bị cáo được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận với quan điểm của Kiểm sát viên, lời nói sau cùng bị cáo mong Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo mức án nhẹ nhất vì bị cáo hiện đã già yếu.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận K, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Kiến An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và trong thời gian chuẩn bị xét xử, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

- Về tội danh:

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, biên bản phạm tội quả tang và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, nên đủ cơ sở kết luận: Vào 22 giờ 00 ngày 16/6/2023 tại phòng nghỉ số 03 quán cà phê tẩm quất H tại địa chỉ số 101 Q, phường L, quận K, thành phố Hải Phòng do bị cáo Nh làm chủ quán, bị cáo Nh đã có hành vi để anh Cao Văn G thực hiện việc mua bán dâm với chị Hoàng Thị H nên hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Chứa mại dâm” theo Điều 327 Bộ luật Hình sự như quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân quận Kiến An là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

- Về tình tiết định khung hình phạt:

[3] Bị cáo Nh có hành vi chứa mại dâm 01 lần vào ngày 16/6/2023 đối với anh Cao Văn Gi và chị Hoàng Thị H nên bị xét xử theo khung hình phạt tại khoản 1 Điều 327 Bộ luật Hình sự như Viện kiểm sát truy tố là có căn cứ.

[4] Tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến trật tự công cộng, gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội, là môi trường lây lan các bệnh xã hội. Do vậy, đối với hành vi phạm tội của bị cáo cần phải được xử phạt nghiêm khắc mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

- Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, hình phạt:

[5] Về nhân thân: Bị cáo Nh có 01 tiền án: Bản án số 23/2014/HSST ngày 04/04/2014 của Tòa án nhân dân quận K, thành phố Hải Phòng xử phạt 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội Chứa mại dâm, thời gian thử thách là 48 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị cáo Vũ Hồng Nh đã thi hành xong án phí hình sự sơ thẩm vào ngày 26/5/2014 (theo phiếu trả lời xác minh thi hành án số 33/PTL- CCTHA ngày 8/7/2023 của Chi Cục thi hành án dân sự quận Kiến An). Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 70 Bộ luật Hình sự, tiền án trên đã được xoá án tích nhưng vẫn coi bị cáo Nh có nhân thân không tốt.

[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Nh có 01 tiền án: Bản án số 117/HSST ngày 25/9/1992 của Tòa án nhân dân quận N, thành phố Hải Phòng xử phạt 06 tháng tù về tội Chứa mại dâm. Qua xác minh tại Cục hồ sơ nghiệp vụ (V06-P5) không còn lưu trữ Giấy chứng nhận chấp hành xong hình phạt tù của bị cáo Nh. Tại phiên toà bị cáo Nhung trình bày đã chấp hành xong hình phạt 06 tháng tù nhưng do thời gian đã quá lâu bị cáo không còn lưu trữ Giấy chứng nhận chấp hành xong hình phạt tù. Tại Bản án số 23/2014/HSST ngày 04/04/2014 của Tòa án nhân dân quận Kiến An, thành phố Hải Phòng là bản án xét xử sau có nội dung bị cáo Nh đã chấp hành hình phạt củ a bản án số 117/HSST. Theo phiếu trả lời xác minh số 126/XM-CCTHS ngày 25/7/2023 của Chi cục Thi hành án quận Ngô Quyền có nội dung: Đối với khoản tiền phạt 50.000đ của Vũ Hồng Nh đã được Toà án nhân dân quận Ngô Quyền ra Quyết định miễn thi hành án dân sự số 03/2010/QĐST-MTHADS ngày 10/12/2010. Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền đã ra Quyết định đình chỉ thi hành án số 315/QĐ-ĐCTHA ngày 31/12/2010. Đối với 15.000đ án phí hình sự sơ thẩm, đến ngày 17/7/2023 bị cáo Nh mới nộp. Như vậy, khi bị cáo Nh thực hiện hành vi phạm tội lần này thì bị cáo chưa thi hành khoản tiền án phí hình sự của bản án số 117/HSST ngày 25/9/1992 của Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền nên căn cứ Điều 70 Bộ luật Hình sự tiền án này chưa được xoá án tích. Do bị cáo có 01 tiền án chưa xoá án tích nhưng lại tiếp tục thực hiện phạm tội do cố ý nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[7] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tại thời điểm phạm tội bị cáo là người cao tuổi. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự cần áp dụng khi xem xét, quyết định hình phạt đối với bị cáo.

- Về hình phạt:

[8] Căn cứ vào nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy mặc dù bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại Điều 51 Bộ luật Hình sự nhưng bị cáo có nhân thân không tốt, có tình tiết tăng nặng, các lần phạm tội trước bị cáo đều phạm tội Chứa mại dâm, chứng tỏ bị cáo chưa thực sự hối cải nên cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn và ở trên mức khởi điểm của khung hình phạt tại khoản 1 Điều 327 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Nhung mới đủ tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa tội phạm chung.

[9] Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử xét thấy, bị cáo Nh không có nghề nghiệp ổn định, lại là người cao tuổi nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp.

- Về vật chứng:

[10] Cơ quan công an đã thu giữ: 35 bao cao su chưa qua sử dụng và 03 bao cao su đã qua sử dụng.

Hội đồng xét xử xét: Đồ vật trên là vật không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Về án phí và quyền kháng cáo:

[11] Bị cáo Nh là người cao tuổi, tại phiên toà bị cáo đề nghị được miễn án phí nên miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

[12] Về các nội dung khác:

Đối với việc Đinh Thị L, Nguyễn Thị H khai còn thực hiện việc bán dâm đối với một số đối tượng nam giới khác (không rõ lai lịch) tại quán cà phê tẩm quất Hồng Nh, nhưng L, H không nhớ thời gian cụ thể. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Kiến An tách ra tiếp tục xác minh làm rõ các đối tượng mua dâm nếu có đủ căn cứ sẽ xử lý sau là có căn cứ.

Đối với hành vi mua dâm của Cao Văn G, Công an quận Kiến An căn cứ Điều 24 Nghị định 144/2021/NĐ-CP của Chính phủ ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với G. Đối với hành vi bán dâm của Hoàng Thị H, Công an quận Kiến An căn cứ Điều 25 Nghị định 144/2021/NĐ-CP của Chính phủ ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với H là có căn cứ.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 327; điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố bị cáo Vũ Hồng Nh phạm tội “Chứa mại dâm”.

Xử phạt bị cáo Vũ Hồng Nh 24 (Hai mươi tư) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án, trừ cho bị cáo các ngày tạm giữ từ ngày 16/6/2023 đến ngày 23/6/2023.

Tiếp tục áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị cáo Vũ Hồng Nh. Thời hạn cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị cáo không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm bị cáo đi chấp hành án phạt tù.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 46, Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, xử:

Tịch thu tiêu hủy: 35 bao cao su chưa qua sử dụng và 03 bao cao su đã qua sử dụng.

(Toàn bộ vật chứng có đặc điểm như tại Biên bản giao nhận vật chứng ngày 26/03/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Kiến An, thành phố Hải Phòng).

3. Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Vũ Hồng Nh được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo Vũ Hồng Nh có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

117
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 19/2024/HS-ST về tội chứa mại dâm

Số hiệu:19/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Kiến An - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;