Bản án 19/2021/HS-ST ngày 16/07/2021 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Y, TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 19/2021/HS-ST NGÀY 16/07/2021 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ

Ngày 16 tháng 7 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Hòa Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 18/2021/TLST-HS ngày 26/5/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 20/2021/QĐXXST-HS 28/6/2021, Quyết định hoãn phiên tòa số 12/2021/HSST-QĐ ngày 12/7/2021 đối với bị cáo:

1. Dương Văn T, tên gọi khác: Không; sinh ngày 28/6/1990 tại xã B, thành phố C, tỉnh Thái Nguyên; Nơi cư trú: xóm A, xã B, thành phố C, tỉnh Thái Nguyên; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Kỹ sư; Con ông Dương Văn T và bà Trần Thị Kim H; Vợ: Nguyễn Thị Thanh H; Con: có 02 con; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại hiện đang thực hiện Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú của Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Hòa Bình (Có mặt tại phiên tòa).

1. Bị hại: Ông Nguyễn Văn Q, sinh năm 1974.

Nơi cư trú: xóm H, xã B, huyện Y, tỉnh Hòa Bình (Đã chết).

Những người đại diện hợp pháp của người bị hại: Bà Đinh Thị T, sinh năm 1976 ( Vợ người bị hại), anh Nguyễn Đức C, Nguyễn Văn L là con người bị hại cùng trú tại xóm H, xã B, huyện Y, tỉnh Hòa Bình ủy quyền cho ông Nguyễn Văn L (anh trai người bị hại), sinh năm 1960, nơi cư trú: xóm H, xã B, huyện Y, tỉnh Hòa Bình làm đại diện hợp pháp tham gia tố tụng trong vụ án theo Biên bản họp gia đình ngày 15/12/2020 và Giấy ủy quyền ngày 15/12/2020 - Có mặt tại phiên tòa

3. Người làm chứng:

3.1. Anh Hà Huy Đ, sinh năm 1983 – Vắng mặt

3.2. Anh Nguyễn Văn K, sinh năm 1986 – Vắng mặt Cùng trú tại: xóm H, xã B, huyện Y, tỉnh Hòa Bình

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ ngày 09/12/2020 Dương Văn T có giấy pháp lái xe hạng A1 điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 20B2-024.34 đi trên đường Hồ Chí Minh hướng Thanh Hóa – Hà Nội. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày đi đến Km 473+112 đường Hồ Chí Minh thuộc địa phận xóm H, xã B, huyện Y, tỉnh Hòa Bình T phát hiện thấy phía trước cùng chiều, cách khoảng 05 mét có ông Nguyễn Văn Q, sinh năm 1974, trú tại xóm H, xã B, huyện Y, tỉnh Hòa Bình đang đi bộ một mình sát mép đường bên phải. Do ánh sáng đèn hắt ra từ trong các nhà dân ven đường, ảnh hưởng đến tầm nhìn, quan sát và T đang điều khiển xe mô tô với tốc độ nhanh, khoảng cách gần nên không thể xử lý một cách an toàn, dẫn đến xe mô tô do T điều khiển đã đâm vào người ông Q gây tai nạn giao thông. Hậu quả: ông Q được đưa đi bệnh viện cấp cứu nhưng do thương tích nặng nên ngày 10/12/2020 đã tử vong.

Kiểm tra nồng độ cồn trong hơi thở và xét nghiệm, chất ma túy đối với Dương Văn T, kết quả: trong hơi thở của Dương Văn T không có nồng độ cồn và không sử dụng trái phép chất ma túy *Kết quả khám nghiệm hiện trường xác định:

Hiện trường xảy ra vụ tai nạn giao thông tại Km 473+112 đường Hồ Chí Minh, thuộc địa phận xóm H, xã B, huyện Y, tỉnh Hòa Bình. Là đoạn đường thẳng, mặt đường phẳng được giải nhựa áp phan, rộng 7m20, ở giữa có vạch kẻ sơn màu vàng đứt đoạn chia đường thành hai chiều xe chạy, phần đường bên phải theo hướng Thanh Hóa – Hà Nội có đường đi vào nhà nạn nhân Nguyễn Văn Q.

Xe mô tô biển kiểm soát 20B2-024.34 trước khi xảy ra tai nạn do Dương Văn T điều khiển chuyển động hướng Hà Nội đi Thanh Hóa. Sau khi tai nạn xảy ra, xe mô tô đổ nghiêng bên trái ở mép phần đường bên phải hướng Hà Nội đi Thanh Hóa, đầu xe mô tô hướng đi Thanh Hóa, đuôi xe mô tô quay hướng đi Hà Nội, đo từ tâm bánh trước vào mép đường chuẩn là 45cm, tâm bánh sau xe mô tô nằm trên mép đường chuẩn.

Xác định điểm mốc và mép đường chuẩn: Lấy cột mốc Km 473+100 đường Hồ Chí Minh nằm tại phần đất lưu không bên phải theo hướng Thanh Hóa đi Hà Nội làm điểm mốc. Lấy mép đường bên phải theo hướng Hà Nội đi Thanh Hóa làm mép đường chuẩn.

Điểm chạm giữa phương tiện và người đi bộ kí hiệu (A) trên sơ đồ hiện trường, khoảng cách từ (A) đến mép đường chuẩn là 43cm, khoảng cách từ (A) đến đầu vết cà trượt số (1) là 1m70, từ (A) đến đầu vết cà trượt số (2) là 1m85, từ (A) đến đầu vết số (3) là 5m15, từ (A) đến tâm xe mô tô biển kiểm soát 20B2-024.34 là 10m80.Vết cà trượt ký hiệu số (1) nằm tại phần đường bên phải hướng Hà Nội đi Thanh Hóa, có kích thước (32x1)cm có chiều hướng Hà Nội đi Thanh Hóa, được tạo thành do đầu lẫy chân chống bên trái xe mô tô BKS 20B2-024.34 cà trượt trên mặt đường để lại. Khoảng cách từ đầu vết số (1) đến mép đường chuẩn 83cm, từ cuối vết số (1) đến mép đường chuẩn là 82cm, khoảng cách từ đầu vết số 1 đến đầu vết số (2) là 30cm. Vết cà trượt ký hiệu số (2) nằm tại phần đường bên phải hướng Hà Nội đi Thanh Hóa, có kích thước 9m85 x 1cm có chiều hướng Hà Nội đi Thanh Hóa, được tạo thành do đầu tay phanh bên trái của xe mô tô BKS 20B2-024.34 cà trượt trên mặt đường để lại. Khoảng cách từ đầu vết số (2) đến mép đường chuẩn 1m10, cuối vết số (2) nằm tại vị trí đầu phanh tay bên trái của xe mô tô đổ ngã trên đường. Khoảng cách từ đầu vết số (2) đến đầu vết số (3) là 3m60.Vết mài trượt ký hiệu số (3) nằm tại mép đường bên phải hướng Hà Nội đi Thanh Hóa, có kích thước 5m55 x 10cm, có chiều hướng Hà Nội đi Thanh Hóa, được tạo thành do mặt ngoài ốp bảo vệ lọc gió bên trái của xe mô tô BKS 20B2-024.34 mài trượt trên mặt đường để lại. Khoảng cách từ đầu vết số (3) đến mép đường chuẩn 10cm, từ cuối vết số (3) đến mép đường chuẩn là 14cm. Điểm mốc đo đến điểm chạm (A) là 11m70, đo đến đầu vết số (1) là 12m90, đo đến đầu vết số (2) là 12m83, đo đến đầu dấu vết số (3) là 16m32, đo đến tâm xe mô tô BKS 20B2- 024.34 là 21m75.Vị trí nạn nhân Nguyễn Văn Q và người điều khiển xe mô tô Dương Văn T không đánh dấu được vị trí.

* Kết quả khám nghiệm tử thi:

Tại Kết luận giám định pháp y số: 122/GĐPY-CAT-PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hòa Bình, ngày 15/12/2020 kết luận: Nạn nhân Nguyễn Văn Q chết do chấn thương sọ não.

* Kết quả khám nghiệm phương tiện liên quan đến tai nạn giao thông:

Các dấu vết để lại trên xe mô tô biển kiểm soát 20B2-024.34 hoàn toàn phù hợp với các dấu vết để lại hiện trường và các tài liệu, chứng cứ khác thu thập trong hồ sơ vụ án.

*Vật chứng thu giữ gồm:

01 xe mô tô kiểm soát 20B2-024.34, màu sơn đỏ đen, nhãn hiệu HONDA, loại xe SH 150i, số máy KC26E1235685, số khung: 2609GY389316, bị hư hỏng một số bộ phận; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, số 061654; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe mô tô, số AA 21/ 0955818, tất cả đều mang tên Dương Văn T.

Trong quá trình điều tra, cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Y đã xác minh, làm rõchiếc xe mô tô kiểm kiểm soát 20B2-024.34 và các giấy tờ thuộc quyền sở hữu hợp pháp của bị cáo T. Viện kiểm sát nhân dân huyện Y đã trả lại: 01 xe mô tô kiểm soát 20B2-024.34, màu sơn đỏ đen, nhãn hiệu HONDA, loại xe SH 150i, số máy KC26E1235685, số khung: 2609GY389316, bị hư hỏng một số bộ phận;01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, số 061654; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe mô tô, số AA 21/ 0955818 cho chủ sở hữu hợp pháp là bị cáo Dương Văn T.

Tiếp tục tạm giữ 01 giấy phép xe lái xe mô tô hạng A1, số AM 291657 mang tên Dương Văn, chuyển theo hồ sơ vụ án.

* Về trách nhiệm dân sự:

Trong quá trình giải quyết vụ án, Dương Văn T đã tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả thiệt hại về tính mạng cho đại diện gia đình bị hại tổng số tiền là 200.000.000 đồng. Đại diện gia đình bị hại đã nhận tiền bồi thường và không có yêu cầu đề nghị gì thêm.

Tại bản cáo trạng số: 18/CT-VKS-YT ngày 26/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Y, tỉnh Hòa Bình đã truy tố Dương Văn T về tội“Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Y thực hành công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Dương Văn T, phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Dương Văn T từ 18 tháng đến 24 tháng nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 36 đến 48 tháng.

Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng điều 46 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Đề nghị trả lại giấy phép lái xe hạng A1 do Sở giao thông vận tải tỉnh Thái Nguyên cấp ngày 22/11/2009 cho bị cáo Dương Văn T.

Trách nhiệm dân sự: Đề nghị HĐXX ghi nhận sự thỏa thuận giữa bị cáo T và người đại diện hợp pháp cho nạn nhân Nguyễn Văn Q là ông Nguyễn Văn L.

Bị cáo nhất trí với tội danh mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Y truy tố, không có ý kiến tranh luận tại phiên tòa. Bị cáo nói lời sau cùng đã nhận thức được sai lầm do hành vi phạm tội của mình gây ra mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo có cơ hội sửa chữa sai lầm trở thành người có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Y, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Y, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc kiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Nội dung vụ án: Vào khoảng 20 giờ ngày 09/12/2020 Dương Văn T có giấy pháp lái xe hạng A1 điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 20B2-024.34 đi trên đường Hồ Chí Minh hướng Thanh Hóa – Hà Nội. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày đi đến Km 473+112 đường Hồ Chí Minh thuộc địa phận xóm Hợp Lý, xã Bảo Hiệu, huyện Y, tỉnh Hòa Bình thì T phát hiện thấy phía trước cùng chiều, cách khoảng 05 mét có ông Nguyễn Văn Q đang đi bộ một mình sát mép đường bên phải. Do T đang điều khiển xe mô tô với tốc độ nhanh, khoảng cách gần và có ánh sáng đèn hắt ra từ trong các nhà dân ven đường, ảnh hưởng đến tầm nhìn, quan sát của T, nên không thể xử lý một cách an toàn, dẫn đến xe mô tô do T điều khiển đã đâm vào ông Q gây tai nạn. Hậu quả: ông Q được đưa đi bệnh viện cấp cứu nhưng do thương tích nặng nên ngày 10/12/2020 đã tử vong. Các dấu vết A- điểm chạm giữa phương tiện và người đi bộ xác định Dương Văn T đã vi phạm quy định tại khoản 3 Điều 4, khoản 1, khoản 2 Điều 5 Thông tư số 36/2019/TT – BGTVT ngày 29/8/2019 của Bộ giao thông vận tải quy định về tốc độ và khoảng cách của xe cơ giới, xe máy chuyên dùng khi tham gia giao thông đường bộ.

Do đó, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Y đã truy tố bị cáo về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật hình sự là có căn cứ pháp luật.

Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi vô ý trực tiếp xâm phạm đến trật tự an toàn giao thông đường bộ và gây thiệt hại đến tính mạng sức khỏe của người khác. Hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, cần phải áp dụng một hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo để răn đe, đồng thời phòng ngừa chung.

Bị cáo T không có tình tiết tặng nặng trách nhiệm hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo Dương Văn T đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tự nguyện bồi thường toàn bộ thiệt hại, đại diện gia đình bị hại đã nhận bồi thường và có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Ngoài ra bị cáo có nhân thân tốt ngoài lần phạm tội này luôn chấp hành đúng chính sách pháp luật và thực hiện nghĩa vụ công dân nơi cư trú, có nơi cư trú rõ ràng. Xét thấy không cần thiết phải bắt chấp hành hình phạt tù mà cho bị cáo hưởng án treo cũng đủ cải tạo bị cáo, không gây nguy hiểm cho xã hội.

[3] Hình phạt bổ sung: Bị cáo Dương Văn T hoàn cảnh kinh tế khó khăn, không có công việc ổn định, vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 46 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự xử lý vật chứng của vụ án như sau:

Trả lại giấy phép lái xe hạng A1 mang tên Dương Văn T do Sở giao thông vận tải tỉnh Thái Nguyên cấp ngày 22/11/2009 cho bị cáo Dương Văn T.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Sau khi tai nạn xảy ra bị cáo Dương Văn T đã tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả thiệt hại do hậu quả vụ tại gây ra cho đại diện gia đình bị hại số tiền 200.000.000 đồng. Đại diện gia đình các bị hại đã nhận tiền bồi thường, tại phiên tòa không yêu cầu đề nghị gì thêm về trách nhiệm dân sự đối với bị cáo nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[6] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Dương Văn T, phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

2. Căn cứ điểm a, khoản 1 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Dương Văn T 18 (Mười tám) tháng tù, cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 36 (Ba sáu) tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Dương Văn T cho Ủy ban nhân dân xã B, thành phố C, tỉnh Thái Nguyên giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì được thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án Hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ hai lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3. Vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 46 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự xử lý vật chứng của vụ án như sau:

Trả lại giấy phép lái xe hạng A1 mang tên Dương Văn T do Sở giao thông vận tải tỉnh Thái Nguyên cấp ngày 22/11/2009 cho bị cáo Dương Văn T.

4. Án phí: Căn cứ khoản 2, điều 135, khoản 2, điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự;

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016. Buộc bị cáo Dương Văn T phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo; đại diện hợp pháp của bị hại có mặt có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

158
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 19/2021/HS-ST ngày 16/07/2021 về tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường bộ

Số hiệu:19/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Thủy - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;