Bản án 19/2021/HN-ST ngày 02/03/2021 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH – TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 19/2021/HN-ST NGÀY 02/03/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 02 tháng 3 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 485/2020/TLST- HN ngày 08 tháng 10 năm 2020 về việc “xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2021/QĐXXST-HN ngày 25 tháng 01 năm 2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1967 Địa chỉ: ấp A, thị trấn C, huyện C, tỉnh Bến Tre.

Bị đơn: bà Lê Thị L, sinh năm: 1969 Địa chỉ: ấp A, thị trấn C, huyện C, tỉnh Bến Tre.

(Tại phiên tòa ông H có mặt, bà L vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 30/9/2020, trong quá trình tố tụng tại Tòa án và tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn ông Nguyễn Văn H trình bày:

Ông và bà L tự nguyện chung sống năm 1993 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn C, huyện C, tỉnh Bến Tre. Thời gian đầu chung sống hạnh phúc. Trong quá trình chung sống có hai con chung tên Nguyễn Lê Thị Mỹ L sinh 16/02/1995 và Nguyễn Lê Thái T sinh 22/11/2003. Sau 23 năm hạnh phúc, cách đây khoảng 6 năm phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, không thống nhât ý kiến, đã sống ly thân nhau. Ông xác định ông không còn tình cảm với bà L, ông yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn với bà L. Sau khi ly hôn ông không yêu cầu bà L cấp dưỡng cho ông.

Về con chung: Sau khi ly hôn chị yêu cầu Tòa giải quyết giao con chung tên Nguyễn Lê Thái T sinh ngày 22/11/2003 cho ông trực tiếp nuôi dưỡng và không yêu cầu bà L cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Tự thoả thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết Về nợ chung: Nợ Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam chi nhánh huyện Châu Thành 50.000.000 đồng, ông đã trả xong, và đã được Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam chi nhánh huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre xác nhận không còn nợ vào ngày 03/02/2021, nay ông xác định nợ chung không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn bà Lê Thị L trình bày: bà và ông H tự nguyện sống chung năm 1993, nhưng đến năm 2002 mới đăng ký kết hôn tại uỷ ban nhân dân thị trấn Châu Thành, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre.Trong quá trình chung sống có hai con chung Nguyễn Lê Thị Mỹ L, sinh ngày 16/02/1995 và Nguyễn Lê Thái T sinh ngày 22/11/2003. Bà và ông H không có gì mâu thuẫn cả, đã 05 năm nay ông H có quan hệ trai gái với những người phụ nữ khác, nhưng bà vẫn chịu đựng sống lo cho con, không có làm khó ông H.Thời gian gần đây bà đã đi làm ở Thành phố Hồ Chí Minh. Bà không đồng ý ly hôn, bà sẽ không ký đơn đồng thuận ly hôn. Nhưng nếu ông H kiên quyết ly hôn Toà án quyết định cho ly hôn thì bà cũng không có ý kiến. Trường hợp Toà buộc ly hôn bà không yêu cầu ông H cấp dưỡng cho bà.

Về tài sản chung: Tự thoả thuận, không yêu cầu Toà án giải quyết.

Về con chung: bà đồng ý giao con chung tên Nguyễn Lê Thái T sinh ngày 23/11/2003 cho ông H nuôi và bà không cấp dưỡng nuôi con. Con chung Nguyễn Lê Thị Mỹ L đã trưởng thành.

Về nợ chung: còn nợ Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam chi nhánh huyện C 50.000.000 đồng do ông H vay, ông H tự chịu trách nhiệm trả không liên quan đến bà. Ngoài Ngân hàng này bà và ông H không còn nợ chung nào khác.

Trong quá trình giải quyết vụ án mặc dù đã được Tòa án tống đạt thông thông báo hòa giải theo đúng qui định của Bộ luật tố tụng dân sự nhưng bà L đều vắng mặt nên Tòa án không thể tiến hành hòa giải được.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành phát biểu ý kiến: trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, thư ký người tham gia tố tụng đã tuân thủ theo quy định của pháp luật. Về nội dung vụ án: bà L cho rằng bà và ông H không có mâu thuẫn vợ chồng, nhưng bà L lại không đến Toà án để tham dự hoà giải theo thông báo của Toà án. Như vậy bà L không có thiện chí hàn gắn tình cảm vợ chồng. Để nghị Toà án chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của ông H. Đề nghị giao con chung tên Nguyễn Lê Thái T sinh ngày 23/11/2003 cho ông H nuôi dưỡng, ghi nhận ông H không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung: ông H và bà L tự thoả thuận. Về nợ chung: ông H đã tự nguyện trả 50.000.000 đồng cho Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam chi nhánh huyện Châu Thành, ghi nhận ông H không yêu cầu bà L trả lại một nữa số tiền trên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên Tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[2] Ông Nguyễn Văn H và bà Lê Thị L sống chung vào năm 1993 và có đăng ký kết hôn tại ủy ban nhân dân thị trấn C, huyện C, tỉnh Bến Tre vào năm 2002, hôn nhân do tự nguyện. Đây là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ. Ông H yêu cầu giải quyết ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

[3] Ông H trình bày sau khi kết hôn ông và bà L thời gian đầu chung sống hạnh phúc. Khoản 6 năm nay phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, ông và bà L đã sống ly thân nhau. Tại phiên tòa, ông xác định tình cảm vợ chồng giữa ông và bà L không còn nên ông yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn với bà L. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ thông báo hòa giải nhiều lần cho bị đơn bà Lê Thị L để hòa giải với ông H nhưng bà L vẫn vắng mặt không lý do nên Tòa án đã tiến hành lập biên bản không hòa giải được theo quy định tại khoản 1 Điều 207 Bộ luật Tố tụng dân sự và đưa vụ án ra xét xử. Tại phiên tòa sơ thẩm, bị đơn bà Lê Thị L vẫn vắng mặt không có lý do mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 2. Do đó, căn cứ theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bà Lê Thị L.

[4] Xét yêu cầu xin ly hôn của ông H, Hội đồng xét xử nhận thấy: căn cứ vào lời trình bày của ông H và lời trình bày của chị Nguyễn Lê Thị Mỹ L tại biên bản xác minh ngày 06/11/2020 của Toà án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre xác định: thực tế ông H và bà L có xảy ra mâu thuẫn đã hơn bốn năm, hiện tại sống ly thân nhau hơn sáu tháng. Đây là một khoảng thời gian dài để ông H và bà L có thể suy nghĩ và bàn bạc phương án hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng ông bà vẫn không làm được. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập các bên đương sự hợp lệ nhiều lần để tiến hành hòa giải nhằm mục đích hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng bà L vẫn không đến tham dự phiên hoà giải. Điều đó cho thấy, bà L không thể hiện thiện chí mong muốn vợ chồng đoàn tụ, tại phiên tòa ông H vẫn cương quyết xin ly hôn với bà L. Hội đồng xét xử xét thấy, tình trạng mâu thuẫn vợ chồng giữa ông H và bà L đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên ly hôn là biện pháp tốt nhất cho cả hai. Do đó, căn cứ theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của ông Nguyễn Văn H.

[5]Từ những nhận định trên đây, xét thấy lời đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre về việc chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của ông H là có căn cứ phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[6]Về con chung:thời gian chung sống ông H và bà L có hai con chung Nguyễn Lê Thị Mỹ L, sinh ngày 16/02/1995 và Nguyễn Lê Thái T sinh ngày 22/11/2003. Ông H yêu cầu được nuôi con chung Nguyễn Lê Thái T sinh ngày 22/11/2003 và không yêu cầu bà L cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử xét thấy, tại biên bản lấy lời khai ngày 23/11/2020 của Toà án nhân dân huyện Châu Thành, bà L đồng ý để ông H nuôi dưỡng. Đồng thời tại biên bản lấy ý kiến con ngày 25/01/2021 cháu Nguyễn Lê Thái T có nguyện vọng được sống chung với ba. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy giao con chung tên Nguyễn Lê Thái T cho ông H nuôi là phù hợp theo quy định của pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận. Ghi nhận ông H không yêu cầu bà L cấp dưỡng nuôi con cũng như không yêu cầu bà L cấp dưỡng cho ông.

[7] Về tài sản chung: hai bên thống nhất khai tự thoả thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết, Tòa án không xem xét.

[8] Về nợ chung: Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam chi nhánh huyện C, tỉnh Bến Tre xác nhận ông H đã thanh toán xong số tiền 50.000.000 đồng và tiền lãi theo giấy xác nhận ngày 03/02/2021, ngoài số tiền nợ đã thanh toán trên ông H và bà L thống nhất khai không có nợ chung nào khác, không yêu cầu Tòa án giải quyết, Tòa án không xem xét.

[9] Về án phí: Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng ông H phải nộp.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình;

Áp dụng khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147 và Điều 227, 228, 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016; Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của ông Nguyễn Văn H đối với bà Lê Thị L.

Về hôn nhân: Ông Nguyễn Văn H được ly hôn với bà Lê Thị L Về con chung: Sau khi ly hôn, ông Nguyễn Văn H được trực tiếp nuôi con chung Nguyễn Lê Thái T sinh ngày 22/11/2003. Ghi nhận sự tự nguyện của ông H không yêu cầu bà L cấp dưỡng nuôi con. Con chung tên Nguyễn Lê Thị Mỹ L sinh ngày 16/02/1995 đã trưởng thành, Toà án không xem xét.

Bà Lê Thị L được quyền đến thăm, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản.

Vì lợi ích của con chung, khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng như mức cấp dưỡng nuôi con.

Ghi nhận ông Nguyễn Văn H và bà Lê Thị L không yêu cầu cấp dưỡng cho nhau sau khi ly hôn.

Về tài sản chung: ông H và bà L thống nhất khai tự thoả thuận. không yêu cầu Tòa giải quyết, nên Toà án không xem xét.

Về nợ chung: Ngoài số tiền nợ 50.000.000 đồng đối với Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam chi nhánh huyện C, tỉnh Bến Tre đã thanh toán xong, ông H và bà L thống nhất khai không có nợ chung nào khác, không yêu cầu Tòa giải quyết, nên Toà án không xem xét.

Về án phí: Án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 (ba trăm ngàn) đồng ông H phải nộp nhưng được khấu trừ theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0001450 ngày 06 tháng 10 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Bến Tre.

“ Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Đương sự có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

267
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 19/2021/HN-ST ngày 02/03/2021 về ly hôn

Số hiệu:19/2021/HN-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 02/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;