TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG TRÔM, TỈNH BẾN TRE
BẢN ÁN 19/2021/HNGĐ-ST NGÀY 04/02/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 04 tháng 02 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 460/2020/TLST- HNGĐ ngày 10 tháng 12 năm 2020 về việc: “ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 06 tháng 01 năm 2021, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Ngô Lệ Q, sinh năm 1995 (có mặt).
Địa chỉ: Ấp M, xã M, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
2. Bị đơn: Ông Dương Minh L, sinh năm 1990 (vắng mặt).
Địa chỉ: Ấp M, xã P, huyện G, tỉnh Bến Tre.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 20/11/2020, bản tự khai, các tài liệu, chứng cứ cung cấp cho Tòa án và tại phiên tòa nguyên đơn bà Ngô Lệ Q trình bày:
Về hôn nhân: Bà Ngô Lệ Q và ông Dương Minh L tự nguyện kết hôn vào năm 2014, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện G, tỉnh Bến Tre và được cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn vào ngày 21/7/2014. Bà Q và ông L sống chung hạnh phúc thời gian đầu đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm trong cuộc sống, thường xuyên cãi nhau do ông L cờ bạc nên không quan tâm chăm sóc vợ con, bà Q nhiều lần khuyên nhưng ông L không thay đổi; bà Q và ông L sống ly thân từ 2017 cho đến nay. Nay bà Q xác định tình cảm vợ chồng không còn với ông L nên bà Q làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà Q được ly hôn với ông L.
Trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre đã triệu tập hợp lệ nhiều lần bị đơn ông Dương Minh L để tiến hành công khai chứng cứ và hòa giải nhưng ông L vắng mặt không lý do nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến hay yêu cầu của ông L và không tiến hành hòa giải được.
Về con chung: Bà Ngô Lệ Q khai có một con chung tên là Dương Gia B, sinh ngày 18/10/2014; bà Q yêu cầu là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên là Dương Gia B và không yêu cầu ông L cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung: Bà Ngô Lệ Q và ông Dương Minh L tự thỏa thuận nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Về nợ chung: Bà Ngô Lệ Q khai không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre phát biểu ý kiến:
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng với quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; nguyên đơn bà Ngô Lệ Q thực hiện đúng quy định tại Điều 70 và Điều 71 của Bộ luật tố tụng dân sự, bị đơn ông Dương Minh L không thực hiện đúng quy định tại Điều 70 và Điều 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung giải quyết vụ án: Căn cứ các Điều 56, 81, 82, 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; đề nghị Hội đồng xét xử:
- Chấp nhận yêu cầu của bà Ngô Lệ Q về việc ly hôn với ông Dương Minh L.
- Về con chung: Giao cho bà Ngô Lệ Q là người trực tiếp nuôi con chung tên là Dương Gia B, sinh ngày 18/10/2014. Ghi nhận việc bà Ngô Lệ Q không yêu cầu ông Dương Minh L cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung: Bà Ngô Lệ Q và ông Dương Minh L tự thỏa thuận nên Tòa án không xem xét giải quyết.
- Về nợ chung: Bà Ngô Lệ Q khai không có nên Tòa án không xem xét giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng:
- Bà Ngô Lệ Q khởi kiện ông Dương Minh L về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con. Hiện nay, ông Dương Minh L, sinh năm 1990; cư trú tại: Ấp M, xã P, huyện G, tỉnh Bến Tre nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
- Ông Dương Minh L là bị đơn được Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre triệu tập hợp lệ đến phiên tòa xét xử lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Căn cứ vào khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt ông Dương Minh L.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Ngày 21/7/2014, Ủy ban nhân dân xã P, huyện G, tỉnh Bến Tre cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn cho bà Ngô Lệ Q và ông Dương Minh L nên quan hệ hôn nhân giữa bà Ngô Lệ Q và ông Dương Minh L là hợp pháp. Quá trình vợ chồng sống chung hạnh phúc thời gian đầu đến năm 2015 phát sinh mâu thuẫn do hai bên bất đồng quan điểm sống nên dẫn đến mâu thuẫn, mất lòng tin với nhau; vợ chồng thường xuyên cãi nhau do ông L cờ bạc và không quan tâm chăm sóc vợ con, bà Q nhiều lần khuyên nhưng ông L không thay đổi; bà Q và ông L sống ly thân từ năm 2017 cho đến nay. Ông L đã vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 19 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014: “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình”. Bà Q xác định tình cảm vợ chồng không còn với ông L và không muốn hàn gắn, đoàn tụ nên không còn khả năng đoàn tụ. Điều này chứng tỏ tình trạng hôn nhân giữa bà Q và ông L đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Xét yêu cầu ly hôn của bà Q có căn cứ và phù hợp theo quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên có cơ sở chấp nhận.
[3] Về việc nuôi con: Bà Ngô Lệ Q khai có một con chung tên là Dương Gia B, sinh ngày 18/10/2014; hiện nay cháu B đang sống với bà Q. Bà Q yêu cầu là người được tiếp tục nuôi dưỡng cháu B. Tuy nhiên, việc giao con cho ai nuôi dưỡng cần phải xem xét mọi mặt và quyền lợi của con chưa thành niên. Do ông L vắng mặt trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án và tại phiên tòa nên không có ý kiến về việc nuôi dưỡng con chung. Xét yêu cầu được nuôi con của bà Q là phù hợp theo quy định tại Điều 58 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử xét thấy có cơ sở chấp nhận để bà Q là người trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.
[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Bà Ngô Lệ Q không yêu cầu ông Dương Minh L cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét đóng góp chi phí nuôi con đối với ông L.
[5] Về tài sản chung: Bà Ngô Lệ Q và ông Dương Minh L tự thỏa thuận nên Tòa án không xem xét giải quyết.
[6] Về nợ chung: Bà Ngô Lệ Q khai không có nên Tòa án không xem xét giải quyết.
[7] Về án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch: Căn cứ vào Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án thì bà Ngô Lệ Q phải chịu là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng.
[8] Tại phiên tòa, đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; các Điều 51, 56, 57 và Điều 58 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; Tuyên xử:
1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Ngô Lệ Q đối với ông Dương Minh L. Bà Ngô Lệ Q được ly hôn với ông Dương Minh L.
2. Về việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con: Giao cho bà Ngô Lệ Q là người trực tiếp nuôi con chung tên Dương Gia B, sinh ngày 18/10/2014. Ghi nhận việc bà Ngô Lệ Q không yêu cầu ông Dương Minh L cấp dưỡng nuôi con. Ông Dương Minh L là người không trực tiếp nuôi con được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai được cản trở. Vì lợi ích của con chung sau này, một hoặc cả hai bên có quyền làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết việc thay đổi nuôi con và việc cấp dưỡng nuôi con. Trong trường hợp có căn cứ theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì trên cơ sở lợi ích của con, cá nhân, cơ quan, tổ chức sau có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con: Người thân thích; Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình; Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em; Hội liên hiệp phụ nữ.
3. Về tài sản chung: Bà Ngô Lệ Q và ông Dương Minh L tự thỏa thuận nên Tòa án không xem xét giải quyết.
4. Về nợ chung: Bà Ngô Lệ Q khai không có nên Tòa án không xem xét giải quyết.
5. Về án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch: Bà Ngô Lệ Q phải nộp là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0004112 ngày 04 tháng 12 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre.
6. Đương sự có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án:
đương sự không có mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
7. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 19/2021/HNGĐ-ST ngày 04/02/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 19/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Giồng Trôm - Bến Tre |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 04/02/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về