TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NINH BÌNH - TỈNH NINH BÌNH
BẢN ÁN 19/2020/HNGĐ-ST NGÀY 25/09/2020 VỀ XIN LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN
Ngày 25 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình - tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 93/2020/TLST - HNGĐ ngày 22 tháng 5 năm 2020 về tranh chấp: “Xin ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 17/2020/QĐXXST - HNGĐ ngày 11 tháng 8 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 07/QĐST- HNGĐ ngày 04/9/2020 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Trần Thị N, sinh năm: 1990;
Nơi ĐKHKTT: Thôn T, xã N, thành phố Ninh Bình;
Chỗ ở hiện nay: Nhà bà Vũ Thị D (mẹ đẻ) xóm 6, xã Q, huyện K, tỉnh Ninh Bình .
- Bị đơn: Anh Nguyễn Đình V, sinh năm: 1986.
Trú tại: thôn T, xã N thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình.
Người làm chứng: Bà Vũ Thị D, sinh năm 1963 (mẹ đẻ chị N).
Trú tại: Xóm 6, xã Q, huyện K, tỉnh Ninh Bình.
Tại phiên tòa: Có mặt chị N, vắng mặt anh V mặc dù Tòa án đã triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện và bản tự khai và tại phiên tòa chị Trần Thị N trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Đình V kết hôn ngày 26/7/2010 tại UBND xã Ninh Nhất, thành phố Ninh Bình trên cơ sở tự nguyện, không ai bị ép buộc. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại thôn Thượng, xã Ninh Nhất, thành phố Ninh Bình cùng với bố mẹ anh V. Quá trình chúng sống, vợ chồng thường xuyên sảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm cách sống, thường xuyên cãi vã đánh nhau, anh V không chịu làm ăn, không quan tâm đến vợ con. Tháng 5/2019, vợ chồng tiếp tục sảy ra xô xát đánh nhau nên chị đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở xóm 6, Quang Thiện, huyện Kim Sơn. Từ đó, vợ chồng sống ly thân, không ai quan tâm đến nhau, nay chị thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị ly hôn với anh Nguyễn Đình V.
Về con chung: Chị và anh Nguyễn Đình V có một con chung là cháu Nguyễn Đình Huy Q, sinh ngày 23/01/2011, hiện nay cháu đang ở với chị, đang học tại trường tiểu học Quang Thiện huyện Kim Sơn. Khi ly hôn, nguyện vọng của chị là muốn được tiếp tục nuôi dưỡng chăm sóc giáo dục cháu, không yêu cầu anh V phải cấp dưỡng nuôi con, nghề nghiệp của chị là đi tiếp thị, thu nhập từ 11 đến 16 triệu đồng, còn anh V không có nghề nghiệp gì.
Về tài sản chung và công nợ chung: Chị và anh V không có tài sản chung, không vay nợ ai nên không đề nghị Tòa án giải quyết.
Bị đơn anh Nguyễn Đình V: Không có bản tự khai và không cung cấp tài liệu chứng cứ gì mặc dù Tòa án đã giao Thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng khác.
Phát biểu của Kiểm sát viên:
Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký Tòa án đúng trình tự quy định của pháp luật. Đối với các đương sự: quá trình giải quyết vụ án, chị N chấp hành pháp luật còn bị đơn không chấp hành mặc dù Tòa án đã giao Thông báo về việc thụ lý vụ án và tống đạt văn bản tố tụng hợp lệ. Tại phiên tòa, anh V vắng mặt. Căn cứ điểm b, khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh Nguyễn Đình V.
Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 56, 57, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326 /UBTVQH ngày 31/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: chấp nhận đơn khởi kiện của chị Trần Thị N xử cho chị N được ly hôn anh Nguyễn Đình V. Về con chung: Giao cho chị Trần Thị N trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục cháu Nguyễn Đình Huy Q sinh ngày 23/01/2011 đến khi cháu trưởng thành. Ghi nhận sự tự nguyện của chị N về việc không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con. Khi cần thiết các đương sự được quyền xin thay nổi nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con. Chị N phải nộp án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1].Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị N và anh Nguyễn Đình V kết hôn được tự do tìm hiểu tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Ninh Nhất thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình ngày 26/7/2010. Đây là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, anh chị sống cùng với bố mẹ chồng tại thôn Thượng, xã Ninh Nhất, thành phố Ninh Bình. Quá trình chung sống vợ chồng thường xuyên sảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, cách sống, anh V lười lao động, không quan tâm đến gia đình và vợ con nên vợ chồng thường xuyên cãi chửi nhau. Tháng 5/2019, chị N đã đưa con về nhà bố mẹ đẻ chị ở xã Quang Thiện Kim Sơn sinh sống và cháu Quang học tập luôn tại trường ở huyện Kim Sơn. Từ đó đến nay, vợ chồng sống ly thân, không ai quan tâm đến ai. Trong quá trình giải quyết vụ án, anh V có mặt tại địa phương nhưng không đến Tòa án làm việc và không có ý kiến gì về việc xin ly hôn của chị N. Gia đình bố mẹ chị N cũng đồng ý để chị N ly hôn anh V. Tòa án cũng đã có Biên bản xác minh tại địa phương về mâu thuẫn của vợ chồng chị N, anh V (biên bản xác minh ngày 17/7/2020). Chị N kiên quyết xin ly hôn vì chị không thể chấp nhận chung sống với anh V được nữa, tình cảm của chị với anh V không còn. Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị N và anh V đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ Điều 56, 57 luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị N, xử cho chị N được ly hôn anh Nguyễn Đình V là phù hợp với quy định của pháp luật.
[2]. Về con chung: Chị N và anh V có 01 con chung là cháu Nguyễn Đình Huy Q, sinh ngày 23/01/2011. Hiện nay, cháu đang sống cùng chị N. Chị N có nguyện vọng được nuôi con và không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con vì điều kiện của anh V hiện nay không có việc làm, kinh tế khó khăn. Nguyện vọng của cháu Quang muốn được ở với mẹ. Hội đồng xét xử xét thấy cần giao cháu Nguyễn Đình Huy Quang cho chị N tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục đến khi trưởng thành là cần thiết và ghi nhận sự tự nguyện của chị N về việc không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con. Anh V được quyền thăm nom chăm sóc con chung. Khi cần thiết, các bên được quyền xin thay đổi nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.
[3]Về tài sản chung, công nợ chung: Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[4]Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị N phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.
Các đương sự được quyền kháng cáo trong thời gian luật định.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 56, 57, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 147; điểm b, khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử:
1.Chấp nhận đơn khởi kiện của chị Trần Thị N. Xử cho chị Trần Thị N được ly hôn anh Nguyễn Đình V. Quan hệ hôn nhân giữa chị N, anh V chấm dứt kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.
2. Về con chung: giao cháu Nguyễn Đình Huy Q sinh ngày 23/01/2011 cho chị N chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục đến khi trưởng thành.
Ghi nhận sự tự nguyện của chị N về việc không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con. Anh V được quyền thăm nom chăm sóc con chung. Khi cần thiết, các bên được quyền xin thay đổi nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.
Khi cần thiết các bên được quyền xin thay đổi nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con .
3.Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Trần Thị N phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn được đối trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2018/0001509 ngày 19/5/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Ninh Bình.
Án xử công khai sơ thẩm, chị N có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, anh V vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.
Bản án 19/2020/HNGĐ-ST ngày 25/09/2020 về xin ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn
Số hiệu: | 19/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Ninh Bình - Ninh Bình |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 25/09/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về