Bản án 19/2020/HNGĐ-ST ngày 24/03/2020 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN U MINH, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 19/2020/HNGĐ-ST NGÀY 24/03/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 24 tháng 3 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện U Minh, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 09/2020/TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 01 năm 2020 về tranh chấp ly hôn và nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 02 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Sơn Thị N, sinh năm 1983 (có mặt)

Nơi cư trú: Ấp 6, xã K, huyện M, tỉnh Cà Mau.

Chỗ ở hiện nay: Ấp 7, xã K, huyện M, tỉnh Cà Mau.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn: Ông Võ Giang N – Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Cà Mau.

- Bị đơn: Anh Huỳnh Văn G, sinh năm 1966 (vắng mặt)

Nơi cư trú: Ấp 6, xã K, huyện M, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 13-01-2020 và tại phiên tòa, nguyên đơn là chị Sơn Thị N trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Sơn Thị N và anh Huỳnh Văn G tự nguyện xác lập quan hệ hôn nhân vào năm 2006 và có đăng ký kết hôn tại UBND xã K, huyện M, tỉnh Cà Mau ngày 24-02-2009. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh G không lo làm ăn, không quan tâm chăm sóc cho gia đình, thường xuyên uống rượu về cự cãi, hành hạ chị. Vợ chồng ly thân từ tháng 7 năm 2019 âl cho đến nay. Nay chị N yêu cầu ly hôn với anh G.

Về con chung: Có 01 con chung tên Sơn Minh N1 (nam), sinh ngày 10-7-2008, hiện nay chị N đang trực tiếp nuôi dưỡng. Khi ly hôn, chị N yêu cầu tiếp tục nuôi dưỡng cháu N1, không đặt ra vấn đề cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Chị N và anh G tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Chị N xác định không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại văn bản ngày 24-02-2020, thể hiện: Con chung là Sơn Minh N1 có nguyện vọng tiếp tục sống với chị N.

Trong quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án đã tống đạt các văn bản tố tụng cho bị đơn đúng theo quy định pháp luật nhưng anh Huỳnh Văn G không có văn bản thể hiện ý kiến của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn và cũng không cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án.

Người bảo về quyền và lợi ích hợp pháp cho chị N trình bày: Mâu thuẫn vợ chồng giữa chị N và anh G đã đến mức trầm trọng không thể hàn gắn nên đề nghị Tòa án chấp nhận cho chị N ly hôn với anh G. Hiện nay chị N có công việc và thu nhập ổn định đảm bảo nuôi con nên yêu cầu giao con chung là Minh N1 cho chị N nuôi dưỡng, chị N không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Anh Huỳnh Văn G đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa sơ thẩm nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên xem như từ bỏ quyền của mình tại phiên tòa. Vì vậy, Tòa án căn cứ khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt anh G.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Sơn Thị N và anh Huỳnh Văn G tự nguyện xác lập quan hệ hôn nhân vào năm 2006 và có đăng ký kết hôn tại UBND xã K, huyện M, tỉnh Cà Mau ngày 24-02-2009 đúng theo quy định tại Điều 11 của Luật hôn nhân và gia đình. Vì vậy, quan hệ hôn nhân giữa chị N và anh G được pháp luật công nhận là hôn nhân hợp pháp và bảo vệ.

[3] Xét yêu cầu ly hôn của chị Sơn Thị N, thấy rằng: Tại phiên tòa, chị N xác định vợ chồng đã ly thân từ tháng 7 năm 2019 âl cho đến nay; hiện nay chị không còn tình cảm yêu thương anh G và thể hiện sự quyết tâm mong muốn được ly hôn. Đồng thời, chị N khẳng định đời sống hôn nhân không thể duy trì, mâu thuẫn giữa vợ chồng đã đến mức trầm trọng không thể hàn gắn đoàn tụ. Trường hợp tiếp tục chung sống sẽ không mang lại hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu của chị N được ly hôn với anh G.

[4] Về nuôi con chung: Xét yêu cầu của chị N về việc tiếp tục nuôi dưỡng Minh N1, không đặt ra vấn đề cấp dưỡng nuôi con. Quá trình giải quyết vụ án, anh G không có văn bản ý kiến về quyền và nghĩa vụ nuôi con chung; chị N xác định từ khi ly thân đến nay anh G cũng không đến thăm nom con. Trên cơ sở xem xét nguyện vọng của con chung, cần giao cháu Minh N1 cho chị N tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh G không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Chị N không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét trong vụ án này.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Chị N tự thỏa thuận với anh G về tài sản chung và xác định không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì vậy, Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét trong vụ án này.

[6] Như đã phân tích, các yêu cầu khởi kiện của chị N và đề nghị của người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho chị N là có căn cứ nên được chấp nhận.

[7] Về án phí: Chị Sơn Thị N phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm 300.000 đồng không phụ thuộc vào việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu, theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 4 Điều 147 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Áp dụng các Điều 51, 56, 81 và 82 của Luật hôn nhân và gia đình;

Áp dụng điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Tuyên xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của chị Sơn Thị N ly hôn với anh Huỳnh Văn G.

- Về nuôi con chung: Giao con chung là Sơn Minh N1 (nam), sinh ngày 10-7-2008 cho chị Sơn Thị N tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục; không đặt ra nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Anh Huỳnh Văn G không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

- Về tài sản chung và nợ chung: Chị Sơn Thị N không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về án phí: Chị Sơn Thị N phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng). Ngày 14 tháng 01 năm 2020, chị N đã dự nộp án phí 300.000 đồng tại biên lai số 0004787 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện U Minh, tỉnh Cà Mau, được chuyển thu.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Chị Sơn Thị N có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Huỳnh Văn G có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết công khai bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

179
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 19/2020/HNGĐ-ST ngày 24/03/2020 về tranh chấp ly hôn và nuôi con

Số hiệu:19/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện U Minh - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;