Bản án 19/2020/HNGĐ-ST ngày 10/01/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH – TP. HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 19/2020/HNGĐ-ST NGÀY 10/01/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 10 tháng 01 năm 2020, tại phòng xử án của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 424/2019/TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 5 năm 2019 việc “Tranh chấp về ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 509/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 18 tháng 11 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 424/2019/QĐST-HNGĐ ngày 12 tháng 12 năm 2019 giữa:

Nguyên đơn: Nguyễn Thị H, sinh năm: 1970.

Địa chỉ: xã B, huyện C, thành phố Hồ Chí Minh.

Bị đơn: Ông Nguyễn Tấn L, sinh năm: 1960.

Đa chỉ: xã B, huyện C, thành phố Hồ Chí Minh.

(bà H và ông L vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn, bản tự khai và biên bản về việc không tiến hành hòa giải được – nguyên đơn bà Nguyễn Thị H trình bày: Bà Nguyễn Thị H và ông Nguyễn Tấn L chung sống với nhau từ năm 1990, do tự tìm hiểu, không tổ chức đám cưới, có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật. Thời gian đầu vợ chồng chung sống bình thường, không có gì xảy ra. Tuy nhiên, vào năm 2018 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, tính tình không hòa hợp, bà và ông L thường xuyên cãi vã nhau, ông L thường hay đánh đập bà, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc. Vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2018 cho đến nay. Nay tình cảm đối với nhau không còn, bà H yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn Tấn L.

Về con chung: Bà Nguyễn Thị H và ông Nguyễn Tấn L có 02 con chung tên Nguyễn Tấn Đ (giới tính nam), sinh năm: 1991 và Nguyễn Tấn Đ (giới tính nam), sinh năm: 1993, các con đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà Nguyễn Thị H xác nhận không có.

Bị đơn ông Nguyễn Tấn L vắng mặt trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án mặc dù đã được Tòa án tống đạt trực tiếp hợp lệ nên Tòa án không thể ghi nhận ý kiến của ông L.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà Nguyễn Thị H nộp đơn xin ly hôn đối với ông Nguyễn Tấn L. Ông Nguyễn Tấn L hiện đang cư trú tại huyện Bình Chánh. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh.

[2] Ông Nguyễn Tấn L đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông Nguyễn Tấn L theo quy định tại Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Bà Nguyễn Thị H có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bà H theo quy định tại Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[3] Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng mời ông Nguyễn Tấn L đến Tòa án để giải quyết vụ án tranh chấp về ly hôn giữa bà Nguyễn Thị H và ông Nguyễn Tấn L nhưng ông L không đến Tòa án để giải quyết. Vì vậy, ông Nguyễn Tấn L tự tước bỏ quyền được chứng minh của mình. Do đó, ông Nguyễn Tấn L phải chịu hậu quả của việc không chứng minh theo quy định tại Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[4] Về quan hệ vợ chồng: Theo giấy chứng nhận kết hôn số 22, quyển số 01 do Ủy ban nhân dân xã B, huyện C, tỉnh Quảng Nam cấp ngày 16/6/2006 có cơ sở xác định quan hệ hôn nhân giữa bà Nguyễn Thị H và ông Nguyễn Tấn L là hôn nhân hợp pháp được quy định tại Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[5] Bà H xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng giữa bà và ông L không thể hàn gắn được, nên bà yêu cầu được ly hôn với ông L để mỗi người tạo dựng cuộc sống riêng. Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu trên hoàn toàn phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Bởi lẽ, theo lời trình bày của bà H thì giữa bà và ông L bất đồng quan điểm sống, tính tình không còn hòa hợp, mâu thuẫn trầm trọng, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, vợ chồng thường xuyên cãi vã, vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2018 cho đến nay. Như vậy, vợ chồng không còn sự quan tâm chăm sóc lẫn nhau, không cùng nhau vun đắp hạnh phúc gia đình. Mặt khác, trong quá trình hòa giải tại Tòa, ông L cũng không đến Tòa án tham gia tố tụng theo giấy triệu tập để Tòa án hòa giải, động viên hai bên đoàn tụ, hàn gắn tình cảm vợ chồng, điều này chứng tỏ giữa hai người đã không còn tình cảm và đều không có thiện chí để đoàn tụ. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Nguyễn Thị H đối với ông Nguyễn Tấn L.

[6] Về con chung: Bà Nguyễn Thị H và ông Nguyễn Tấn L có 02 con chung tên Nguyễn Tấn Đ (giới tính nam), sinh năm: 1991 và Nguyễn Tấn Đ (giới tính nam), sinh năm: 1993; các con đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[7] Về tài sản chung và nợ chung: Bà H xác nhận không có và không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[8] Về án phí: Bà Nguyễn Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn.

Vì các lẽ nêu trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 91, Điều 203, Điều 227, Điều 228 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Căn cứ vào Điều 9, Điều 51, Điều 56 và Điều 57 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1.Về quan hệ vợ chồng: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Nguyễn Thị H đối với ông Nguyễn Tấn L.

Bà Nguyễn Thị H được ly hôn với ông Nguyễn Tấn L.

Giấy chứng nhận kết hôn số 22, quyển số 01 do Ủy ban nhân dân xã B, huyện C tỉnh Quảng Nam cấp ngày 16/6/2006 không còn giá trị pháp lý.

2. Về con chung: Bà Nguyễn Thị H và ông Nguyễn Tấn L có 02 con chung tên Nguyễn Tấn Đ (giới tính nam), sinh năm: 1991 và Nguyễn Tấn Đ, (giới tính nam), sinh năm: 1993, các con đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Bà Nguyễn Thị H xác nhận không có và không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

4. Về án phí: Bà Nguyễn Thị H chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) mà bà H đã nộp theo biên lai thu số 0025170 ngày 25/4/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh. Bà H đã nộp đủ án phí.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

172
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 19/2020/HNGĐ-ST ngày 10/01/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:19/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;