Bản án 19/2020/HNGĐ-ST ngày 08/09/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN V, TỈNH N

BẢN ÁN 19/2020/HNGĐ-ST NGÀY 08/09/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 08 tháng 09 năm 2020, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện V, tỉnh N tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 28/2020/TLST- HNGĐ ngày 21 tháng 02 năm 2020 về việc Tranh chấp hôn nhân và gia đình. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 45/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 21 tháng 7 năm 2020 và quyết định hoãn phiên tòa số 25/2020/QĐST-HNGĐ ngày 20/8/2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Diệu L, sinh năm 1994; địa chỉ thôn 1 K, xã G, huyện V, tỉnh N; Vắng mặt. (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

Bị đơn: Anh Bùi Văn H, sinh năm 1987; địa chỉ thôn 1 K, xã G, huyện V, tỉnh N;

Hiện nay anh Bùi Văn H đang chấp hành hình phạt tù tại: Đội 6, phân trại K1, Trại giam N, Cục C10 Bộ Công an; địa chỉ xã N, huyện H, tỉnh N; (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện xin ly hôn ngày 17 tháng 02 năm 2020, và các bản tự khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Diệu L trình bày: Giữa chị Nguyễn Thị Diệu L và bị đơn là anh Bùi Văn H, kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 12 tháng 12 năm 2013, tại Ủy ban nhân dân xã G, huyện V, tỉnh N. Sau khi kết hôn hai người chung sống cùng nhau tại xã G, huyện V, tỉnh N. Chị Nguyễn Thị Diệu L và anh Bùi Văn H chung sống hòa thuận, hạnh phúc được thời gian ngắn thì tình cảm vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn có nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu do kinh tế gia đình khó khăn, anh H không tu chí làm ăn, thường xuyên đánh bạc, đã từng bị tòa án xử phạt 27 tháng tù và đang chấp hành hình phạt tù tại: Đội 6, phân trại K1, Trại giam N. Chị L thấy tình cảm vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, chị L đã làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Bùi Văn H.

Về con chung, chị Nguyễn Thị Diệu L trình bày: Vợ chồng chị có một con chung cháu là Bùi Tùng L, sinh ngày 25/01/2014. Nếu được Toà án chấp nhận cho ly hôn, chị L đề nghị Tòa án giao con chung cho chị là người trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc sau ly hôn, chị không yêu cầu anh Bùi Văn H phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung cho chị.

Về quan hệ tài sản và công nợ chung: Chị Nguyễn Thị Diệu L không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Về phía bị đơn là anh Bùi Văn H đã được Tòa án giao thông báo về việc thụ lý vụ án nhưng không có ý kiến gì.

Tại phiên tòa vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện V, phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đều tuân theo đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 56, các Điều 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147; khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

- Xử: Cho chị Nguyễn Thị Diệu L được ly hôn anh Bùi Văn H;

- Về con chung. Giao cho chị Nguyễn Thị Diệu L tiếp tục trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Bùi Tùng L, sinh ngày 25/01/2014, cho tới khi cháu L đủ 18 tuổi. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở.

- Về án phí: Chị Nguyễn Thị Diệu L phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Tòa; Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Nguyễn Thị Diệu L có đơn yêu cầu Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh N giải quyết cho chị được ly hôn anh Bùi Văn H; anh Bùi Văn H có nơi cư trú tại xã G, huyện V, tỉnh N, đây là vụ án tranh chấp về Hôn nhân và gia đình, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh N theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Diệu L có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, bị đơn anh Bùi Văn H đã được Toà án nhân dân huyện V triệu tập hợp lệ đến phiên Tòa xét xử lần thứ hai, nhưng vắng mặt (đang chấp hành hình phạt tù tại: Đội 6, phân trại K1, Trại giam N). Theo quy định tại khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 1, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị Diệu L và anh Bùi Văn H trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã G, huyện V, tỉnh N vào ngày 12 tháng 12 năm 2013. Đây là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật bảo vệ, sau khi kết hôn hai người chung sống hòa thuận hạnh phúc được thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân chính là do kinh tế gia đình khó khăn và anh H chơi bời không tu chí làm ăn, thường xuyên đánh bạc và vi phạm pháp luật hình sự. Thực tế anh H đang chấp hành hình phạt tù tại: Đội 6, phân trại K1, Trại giam N. Điều này phù hợp với đơn xin xác nhận tình trạng hôn nhân ngày 10/6/2020 do chị L giao nộp cho Tòa án, có xác nhận của UBND xã G. Trong quá trình giải quyết vụ án, Toà án nhân dân huyện V đã tiến hành giao các văn bản tố tụng cho anh H, nhưng anh H không nhận và cũng không có lời khai, yêu cầu gì. Điều đó thể hiện sự coi thường pháp luật, không còn thiện chí để tìm cách đoàn tụ vợ chồng, chứng tỏ quan hệ vợ chồng giữa chị L và anh H đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Diệu L.

[3] Về quan hệ con chung: Chị Nguyễn Thị Diệu L và anh Bùi Văn H có một con chung cháu là Bùi Tùng L, sinh ngày 25/01/2014. Chị L có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con chung. Việc nuôi dưỡng, chăm sóc con chung là quyền, đồng thời cũng là nghĩa vụ của cha mẹ. Tuy nhiên, việc giao con cho ai nuôi cần phải xem xét mọi mặt và quyền lợi của con chưa thành niên. Hội đồng xét xử xét thấy, chị L và anh H có một con chung; cháu L đã trên ba tuổi, chị L là người lao động tự do, có thu nhập, chị L không yêu cầu anh Bùi Văn H phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung cho chị. Trong thời gian trước đây và hiện nay con chung của chị L và anh H đều được nuôi dưỡng, chăm sóc đảm bảo tốt về mọi mặt. Anh Bùi Văn H không có lời khai, đang chấp hành hình phạt tù tại: Đội 6, phân trại K1, Trại giam N. Quan điểm của chị L đưa ra là tự nguyện, không trái pháp luật. Vì vậy, cần giao con chung Bùi Tùng L cho chị Nguyễn Thị Diệu L là người trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục sau ly hôn, tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung của anh Bùi Văn H cho chị Nguyễn Thị Diệu L. Sau này nếu hai bên có tranh chấp về việc nuôi và cấp dưỡng nuôi con chung Tòa án sẽ xem xét giải quyết bằng vụ án dân sự khác.

[4] Về quan hệ tài sản chung và công nợ chung: Chị Nguyễn Thị Diệu L không yêu cầu Tòa án giải quyết về quan hệ tài sản chung, công nợ chung. Vì vậy, vấn đề tài sản chung và công nợ chung, Tòa án không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội. Chị Nguyễn Thị Diệu L phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn.

[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, các Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147; khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân:

Chị Nguyễn Thị Diệu L và anh Bùi Văn H được ly hôn;

2. Về con chung:

Giao cho chị Nguyễn Thị Diệu L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung Bùi Tùng L, sinh ngày 25/01/2014. Thời hạn nuôi con tính từ ngày 08/09/2020 cho tới khi con chung đủ 18 tuổi, nếu không có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung của anh Bùi Văn H cho chị Nguyễn Thị Diệu L. Khi nào chị L có yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết bằng vụ án dân sự khác.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Diệu L phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn. Được khấu trừ 300.000 đồng, tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện V theo biên lai số AA/2019/0000034 ngày 21/02/2020.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 luật thi hành án dân sự”.

Án xử công khai sơ thẩm, nguyên đơn, bị đơn vắng mặt, có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 19/2020/HNGĐ-ST ngày 08/09/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:19/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vụ Bản - Nam Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;