Bản án 19/2019/HSST ngày 26/02/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ Đ, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 19/2019/HSST NGÀY 26/02/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 02 năm 2019. Tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đ, Lâm Đồng, xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số 16/2019/HSST ngày 01 tháng 02 năm 2019; Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2019/QĐ-HSST ngày 14 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: NGUYỄN THANH H. Tên gọi khác: T; Bố; Hà; Tân. Sinh ngày 25 tháng 12 năm 1986. Nơi sinh: Ninh Thuận. Nơi ĐKNKTT: Thôn T, xã S, huyện P, Ninh Thuận. Chỗ ở: Không có nơi cư trú nhất định. Nghề nghiệp: Không. Trình độ học vấn: Không biết chữ. Con ông: Nt, sinh năm 1946; Con bà: C, sinh năm 1949. Hiện ở tại: T, xã S, huyện P, Ninh Thuận. Bị cáo chưa có vợ, con. Tiền án: Tại bản án số 36/2015/HSST ngày 12/02/2015 của Tòa án nhân dân thành phố Đ, Lâm Đồng xử phạt 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 24/01/2017. Tiền sự: Không.

Nhân thân:

1/ Tại bản án số 78/2007/HSST ngày 27/6/2007 của Tòa án nhân dân thành phố Đ, Lâm Đồng, xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 19/3/2008.

2/ Tại bản án số 44/2009/HSPT ngày 24/4/2009 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng, xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 06/11/2009. 3/ Tại bản án số 82/2010/HSPT ngày 28/6/2010 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng, xử phạt 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong ngày 07/11/2011. Bị cáo bị bắt ngày 26/9/2018. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Đ, Lâm Đồng. Có mặt.

Người bị hại: Anh Trịnh Xuân H, sinh năm 1996. Hộ khẩu thường trú tại: Tổ 37, Khu phố 4, Phường 12, thành phố Đ, Lâm Đồng. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 01 giờ sáng ngày 25/9/2018, H mang theo một vam phá khóa tự chế, đi bộ từ đường H, đến đường X, thành phố Đ, Lâm Đồng, tìm xe mô tô để sơ hở nhằm trộm cắp, bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Khi đi đến dãy nhà trọ ở số 02 - H, Phường H, thành phố Đ, Lâm Đồng thì H phát hiện thấy dãy nhà trọ không khóa cổng, bên trong dựng nhiều xe mô tô, không có người trông coi. H đi vào bên trong, đến vị trí dựng chiếc xe mô tô hiệu Yamaha Exciter màu xanh-trắng, biển kiểm soát 49B1-126.66, dùng vam phá khóa mang theo, bẻ khóa xe, dắt xe ra cổng rồi nổ máy, chạy về Thành phố Hồ Chí Minh để tìm người bán chiếc xe trên. Khi đi đến địa phận thành phố B, Đ thì xe hết xăng nên H dắt bộ xe đến cây xăng gần đó để đổ xăng, nhưng sau khi đổ xăng xong thì xe không nổ máy nên H tiếp tục dắt bộ, đi về hướng Thành phố Hồ Chí Minh, khi đi được khoảng hơn 100 mét thì bị lực lượng Công an phường Tân Hòa, thành phố B, Đồng Nai kiểm tra, phát hiện xe không có giấy tờ nên đã yêu cầu H đưa xe về Trụ sở để làm việc. Tại đây, Nguyễn Thanh H đã khai nhận toàn bộ sự việc đã trộm cắp chiếc xe nói trên.

Tại Kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Đ, Lâm Đồng xác định: 01 xe mô tô hiệu Yamaha Exciter, màu xanh-trắng, biển kiểm soát 49B1-126.66 của anh Trịnh Xuân H bị mất trị giá 16.200.000 đồng. Quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã thu giữ xe và trả lại cho anh Hoan, anh Hoan không yêu cầu bị cáo phải bồi gì thêm.

Tại Cáo trạng số 18/CT-VKS ngày 31/01/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ truy tố bị cáo Nguyễn Thanh H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thanh H khai nhận vào đêm ngày 25/9/2018, bị cáo đã có hành vi lợi dụng sự mất cảnh giác của người bị hại, để xe ngoài sân nhà trọ nhưng không khóa cổng, bị cáo đã đột nhập và sử dụng vam phá khóa đã chuẩn bị từ trước, bẻ khóa xe, chiếm đoạt tài sản là 01 xe mô tô hiệu Yamaha Exciter trị giá 16.200.000 đồng với các hành vi cụ thể như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã nêu là đúng, bị cáo không thắc mắc hay khiếu nại gì về nội dung bản Cáo trạng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, Lâm Đồng giữ quyền công tố luận tội và tranh luận như sau: Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Thanh H đã khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra và lời khai của người bị hại, không có nội dung gì thay đổi, hành vi của bị cáo thực hiện việc lén lút chiếm đoạt tài sản trị giá 16.200.000 đồng, có đủ các yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Do đó Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên nội dung Cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo và đề nghị áp dụng khoản 1 điều 173; điểm s khoản 1điều 51 và điểm h khỏan 1 điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 đối với bị cáo. Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh H từ 18 đến 24 tháng tù. Phần bồi thường: Quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã thu giữ tài sản và trả lại cho người bị hại, hiện nay người bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm nên không xem xét. Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét và giải quyết theo qui định của pháp luật.

Bị cáo không có tranh luận gì với Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố và chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng:

Quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra Công an thành phố Đ, Lâm Đồng và Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, Lâm Đồng và Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục qui định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo và người bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại nào về hành vi, quyết định của các Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được tiến hành hợp pháp.

Về hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Thanh H:

Bị cáo là người đã trưởng thành, có đầy đủ nhận thức, bị cáo biết rất rõ việc lợi dụng người bị hại lỏng lẻo, mất cảnh giác và chủ quan trong việc quản lý tài sản của mình, đã lén lút để chiếm đoạt tài sản là 01 xe mô tô của người bị hại với trị giá tài sản 16.200.000 đồng nhằm mục đích để bán lấy tiền sử dụng cho nhu cầu cá nhân là hành vi trái pháp luật, xâm hại trái pháp luật đến quyền sở hữu tài sản của người khác, bị pháp luật nghiêm cấm nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo là người chủ động và trực tiếp thực hiện việc trộm cắp tài sản với mục đích tư lợi, là hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật và gây mất trật tự an toàn xã hội ở địa phương.

Căn cứ lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác đã được thu thập trong quá trình điều tra vụ án. Có đủ căn cứ kết luận bị cáo Nguyễn Thanh H đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm đối với bị cáo được qui định tại điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 như Cáo trạng truy tố và kết luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Về tình tiết định khung hình phạt:

Bị cáo đã có 04 tiền án cùng về tội “Trộm cắp tài sản”, nhưng các tiền án vào các năm 2007, 2009 và 2010 bị cáo đã được đương nhiên xóa án tích nên hành vi của bị cáo phạm tội lần này không vi phạm vào các tình tiết định khung tăng nặng nào theo qui định tại điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, vì vậy bị cáo chỉ bị xét xử theo khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:

Bị cáo phạm tội lần này trong khi tiền án lần thứ 4, xử vào ngày 12/02/ 2015, bị cáo mới chấp hành xong hình phạt tù ngày 24/01/2017, chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm. Đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và hình phạt theo qui định tại điểm h khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015.

Sau khi bị phát hiện, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự qui định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xét bị cáo là người không có việc làm, không có nơi cư trú nhất định, liên tục phạm tội và phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để có điều kiện giáo dục và cải tạo đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự:

Quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã thu giữ tài sản và trả lại cho người bị hại. Đến nay người bị hại không có yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm nên không xem xét để giải quyết phần trách nhiệm dân sự giữa bị cáo đối với người bị hại trong bản án này.

Về xử lý vật chứng:

Vật chứng đã thu giữ trong quá trình điều tra vụ án gồm có: 01 xe mô tô hiệu Yamaha Exciter màu xanh-trắng, biển kiểm soát 49B1-126.66, là xe của anh Trịnh Xuân H, Cơ quan điều tra đã có Quyết định xử lý bằng hình thức giao trả lại cho anh Hoan nên không xem xét để xử lý tiếp. Các tài sản còn lại gồm: 01 Chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Thanh H;01 điện thoại di động hiệu Oppo, vỏ màu vàng (đã qua sử dụng); 02 Sim điện thoại (số 0971400274 và số 08665598430) và 01 cục sạc pin dự phòng màu trắng bạc, là giấy tờ tùy thân và tài sản riêng của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo. Một đoản phá khóa hình chữ T, có tay cầm màu xanh, là công cụ bị cáo dùng thực hiện tội phạm, xét không có giá trị sử dụng nên tịch thu để tiêu hủy.

Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo qui định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] . Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

[2] . Áp dụng khoản 1 điều 173; điểm s khoản 1điều 51 và điểm h khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo: Nguyễn Thanh H 30 (Ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 26/9/2018.

[3] . Áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự và điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự,

+ Trả lại cho bị cáo: 01 Chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Thanh H; 01 điện thoại di động hiệu Oppo, vỏ màu vàng (đã qua sử dụng); 02 sim điện thoại di động mang số 0971400274 và số 08665598430; 01 cục sạc pin điện thoại di động dự phòng, vỏ màu trắng bạc (đã qua sử dụng);

+ Tịch thu để tiêu hủy: 01 đoản phá khóa hình chữ T, có tay cầm màu xanh.

(Các vật chứng có đặc điểm cụ thể theo Biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an thành phố Đvà Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đngày 01/02/2019).

[4]. Áp dụng khoản 2 điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về lệ phí, án phí Tòa án, buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[5] . Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm. Người bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

260
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 19/2019/HSST ngày 26/02/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:19/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;