Bản án 19/2019/HS-ST ngày 09/04/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUẦN GIÁO, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 19/2019/HS-ST NGÀY 09/04/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Vào hồi 07 giờ 30 phút ngày 09 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dânhuyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 20/2019/TLST-HS ngày 20 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 20/2019/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 3 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Cà Thị Đ; tên gọi khác: Không; sinh năm 1990; tại xã M, huyện T, tỉnh Điện Biên; nơi cư trú: Bản C, xã Q, huyện T, tỉnh Điện Biên; dân tộc: Thái; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Nông nghiệp; trình độ văn hóa: Lớp 5/12; con ông: Cà Văn P, đã chết và con bà: Cà Thị L, đã chết; bị cáo có chồng là Quàng Văn C, sinh năm 1989 và 01 người con, sinh năm 2009; tiền sự: Không; tiền án: Không; nhân thân: Bị cáo nghiện ma túy; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 30/12/2018 đến ngày 04/01/2019 và bị tạm giam từ ngày 05/01/2019 cho đến nay. Bị cáo đã được trích xuất, có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Mào Thị T; tên gọi khác: Không; sinh năm 1976; tại xã Q, huyện T, tỉnh Điện Biên; nơi cư trú: Bản C, xã Q, huyện T, tỉnh Điện Biên; dân tộc: Thái; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Nông nghiệp; trình độ văn hóa: Không biết chữ; con ông: Mào Văn K, đã chết và con bà: Quàng Thị N, sinh năm 1962; bị cáo có chồng là Cà Văn C, sinh năm 1965 và 03 người con, con lớn nhất sinh năm 2001, con nhỏ nhất sinh năm 2013; tiền sự: Không; tiền án: Không; nhân thân: Bị cáo nghiện ma túy; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 30/12/2018 đếnngày 04/01/2019 và bị tạm giam từ ngày 05/01/2019 cho đến nay. Bị cáo đã được trích xuất, có mặt tại phiên tòa.

3. Họ và tên: Lò Thị H; tên gọi khác: Không; sinh năm 1973; tại xã C, huyệnT, tỉnh Điện Biên; nơi cư trú: Bản B, xã C, huyện T, tỉnh Điện Biên; dân tộc: Thái; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Nông nghiệp; trình độ văn hóa: Không biết chữ; con ông: Lò Văn H, đã chết và con bà: Lò Thị T, sinh năm 1954; bị cáo có chồng là Lò Văn D, sinh năm 1975 và 04 người con, con lớn nhất sinh năm 1992, con nhỏ nhất sinh năm 2017; tiền sự: Không; tiền án: Không; nhân thân: Bị xét xử bằng bản án số 05/2009/HSST ngày 01/12/2009 của Tòa án nhân dân huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên với mức phạt 02 năm về tội Mua bán trái phép chất ma túy và 07 năm về tội Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 30/12/2018 đến ngày 05/01/2019 và đến ngày 05/01/2019 đã được thay thế biện pháp tạm giữ bằng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Người bào chữa cho bị cáo Mào Thị Thu có: Ông Đỗ Xuân T, Trợ giúp viên - Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Điện Biên, có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo Lò Thị Hươi có: Ông Lê Đình T, Luật sư Cộng tác viên - Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Điện Biên, có mặt.

* Người phiên dịch cho bị cáo Hươi: Bà Tòng Thị T; địa chỉ: Bản C, xã C, huyện T, tỉnh Điện Biên; có mặt.

* Người phiên dịch cho bị cáo Thu: Bà Hoàng Phương T; địa chỉ: Bản C, thị trấn T, huyện T, tỉnh Điện Biên; có mặt.

* Người có nghĩa vụ liên quan: Họ và tên: Quàng Văn C; sinh năm: 1987; cưtrú tại: Bản C, xã Q, huyện T, tỉnh Điện Biên; nghề nghiệp: Nông nghiệp; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 09 giờ, ngày 28/12/2018; Lò Thị H đi mua tóc rối tại khu vực bản Nậm Lịch, xã Nậm Lịch, huyện Mường Ảng, tỉnh Điện Biên thì gặp một người đàn ông dân tộc Mông H không quen biết đang đứng ở ven đường. Qua trao đổi, H đã mua của người đàn ông này 01 gói Heroine với giá 1.200.000đ với mục đích để bán lẻ. Sau khi mua được Heroine H cất giấu vào trong túi áo đang mặc và đi về nhà, còn người đàn ông đó đi đâu H không biết, H cũng không hỏi tên tuổi, địa chỉ và cũng không hứa hẹn với nhau sẽ tiếp tục mua bán ma túy với người đàn ông này. Khi về đến nhà, H mở gói Heroine đã mua ra xem và gói lại bằng 01 túi nilon màu trắng cất giấu vào túi vải đeo của H. Đến khoảng 14 giờ ngày 30/12/2018, H mang theo gói Heroine đã mua trước đó đi đến khu vực xã Q, huyện T để tìm mua tóc rối. Khi đến khu vực bản C, xã Q, huyện T, tỉnh Điện Biên thì gặp Cà Thị Đ và Mào Thị T đang đứng ở ven đường Quốc lộ 6. Cả ba người nói chuyện một lúc thì Cà Thị Đ mời H và T lên nhà Đ chơi.

Khi đến sân nhà Đ, H hỏi Đ và T “Có mua Heroine không?”, Đ và T cùng trả lời là có mua. H nói “Chị có mang theo một chỉ bán với giá một triệu năm trăm nghìn đồng”. Lúc Đ và T bàn bạc với nhau Đ sẽ mua 750.000đ Heroine và T sẽ mua 750.000đ Heroine của H. Khi Đ và T bàn bạc thì H cũng đứng ngay cạnh đó và nghe rõ toàn bộ nội dung cuộc nói chuyện của hai người đó. Do T chưa có tiền trả cho H nên T bảo với Đ trả tiền hộ cho mình trước, khi nào có sẽ trả lại cho Đ sau, Đ đồng ý và nói với H “Bán cho hai chúng em một triệu năm trăm nghìn đồng (Tức bán cho hai người mỗi người bảy trăm năm mươi nghìn đồng)”. H nhất trí và lấy từ trong túi đeo trên người ra đưa cho T 01 gói Heroine được gói bằng túi nilon màu trắng. Đ và T mở gói Heroine ra kiểm tra, rồi Đ lấy 1.500.000đ trả cho H. Sau khi bán Heroine xong, H đi ra khỏi nhà Đ.

Còn Đ và T đi vào nhà của Đ. Khi vào đến nhà, T đưa gói Heroine cho Đ cất giấu trên máng nước mái nhà của Đ, sau đó cả hai ngồi ở bàn uống nước nhà Đ bàn bạc về việc chia Heroine. Đến khoảng 15 giờ cùng ngày, khi Đ và T đang ở trong nhà của Đ thì bị Tổ công tác Công an huyện Tuần Giáo bắt quả tang, thu giữ vật chứng là 01 gói nghi Heroine. Đ và T, đã được đưa về cơ quan điều tra để làm rõ. Qua lời khai của Đ và T, Cơ quan điều tra Công an huyện Tuần Giáo đã thi hành lệnh khám xét khẩn cấp đối với Lò Thị H. Qua khám xét không thu giữ được gì, H được đưa về Cơ quan điều tra Công an huyện Tuần Giáo để điều tra làm rõ. Tại cơ quan điềutra H đã thừa nhận đã bán Heroine cho Đ và T.

Sau khi đưa vật chứng về Cơ quan điều tra, Công an huyện Tuần Giáo thì Cơ quan điều tra đã mở niêm phong có sự chứng kiến của các bị cáo: Đối với 01 gói chất bột màu trắng nghi Heroine thu giữ được xác định khối lượng 1,52 gam và trích mẫu vật gửi giám định. Cơ quan điều tra ra Quyết định trưng cầu giám định số: 30, ngày 10/01/2019. Tại bản Kết luận giám định số: 204/GĐ-PC09 ngày 17/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trích ra từ vật chứng thu giữ gửi giám định là chất ma túy: loại Heroine.

Tại Cáo trạng số: 19/CT-VKS-TG ngày 20 tháng 3 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên đã truy tố các bị cáo Lò Thị H, Cà Thị Đ, Mào Thị T về hành vi Mua bán trái phép chất ma túy. Tại phiên tòa Vị kiểm sát viên Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố các bị cáo Lò Thị H, Cà Thị Đ, Mào Thị T phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy theo Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Đề nghị áp dụng điểm c khoản 2, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 tuyên phạt bị cáo H từ 08 năm đến 08 năm 06 tháng tù. Đề nghị áp dụng khoản 1, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 tuyên phạt các bị cáo Cà Thị Đ và Mào Thị T mỗi bị cáo từ 30 tháng đến 36 tháng tù; không phạt bổ sung đối với các bị cáo Lò Thị H, Cà Thị Đ, Mào Thị T. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm ckhoản 1 Điều 47 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017; khoản 1, điểm akhoản 2 Điều 106 BLTTHS năm 2015; tịch thu tuyên hủy 01 gói niêm phong màu trắng các mép đều được dán kín bên trong có chứa: 1,43 gam chất bột màu trắng Heroine; 01 mảnh nilon màu trắng, 01 vỏ gói niêm phong dùng để niêm phong vật chứng, trả lại bi cáo Đa số tiền 9.650.000đ.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án miễn án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo.

Tại phiên tòa người bào chữa cho bị cáo H đề nghị: Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017; xét về nhân thân, điều kiện hoàn cảnh của bị cáo, cũng như là tính chất khoan hồng của nhà nước để đưa ra mức án thấp nhất của khung hình phạt cho bị cáo H; không phạt bổ sung đối với bị cáo, miễn án phí dân sự sơ thẩm cho bị cáo.

Tại phiên tòa người bào chữa cho bị cáo T đề nghị: Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Cơ quan điều tra đã dựa trên cơ sở lời khai của bị cáo T để điều tra ra bị cáo H như vậy là hoàn toànphù hợp với quy định người phạm tội đã tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm; cũng xét về nhân thân, điều kiện hoàn cảnh của bị cáo thấy, từ nhỏ bị cáo không được đi học nên nhận thức pháp luật và xã hội còn nhiều hạn chế, hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn; do đó đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm s, điểm t khoản 1 Điều 51; Điều 54 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017; tuyên mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt cho bị cáo, không phạt bổ sung đối với bị cáo, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Tại phiên tòa, anh Quàng Văn C khai rằng: Anh có cho bị cáo Đ vay 6.000.000đ với mục đích sửa nhà và trả Ngân hàng; bị cáo Đ cũng khai rằng số tiền anh C cho vay không liên quan đến việc mua bán ma túy.

Tại phiên tòa, các bị cáo nói lời sau cùng: Các bị cáo nhận mình đã có hành vi phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho các bị cáo; đề nghị Hội đồng xét xử xem xét miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét về hành vi của các bị cáo đã thừa nhận thì thấy: Vào ngày 30/12/2018 bị cáo Cà Thị Đ và bị cáo Mào Thị T đã mua chung của bị cáo Lò Thị H 01 gói Heroine với giá 1.500.000đ. Khi mua thỏa thuận Cà Thị Đ mua 750.000đ; bị cáo T mua 750.000đ; thỏa thuận Đ sẽ bỏ tiền ra trả trước cho H, T sẽ trả số tiền 750.000đ cho Đ sau và hai bị cáo này sẽ tự chia nhau gói Heroine đã mua của H; bị cáo Đ trả tiền cho H, còn bị cáo H đã đưa Heroine cho T; các bị cáo T và Đ mua Heroine với mục đích để sử dụng và để bán lẻ kiếm lời. Khi hai bị cáo Đ và bị cáo T đang bàn bạc chia số Herone đó ra thì bị bắt quả tang và các bị cáo đã khai mua số Heroine của bị cáo H. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa; bị cáo H cũng đã thừa nhận đã bán số Heroine đã bị thu giữ cho T và Đ; số Heroine này của bị cáo có được là do bị cáo mua của một người đàn ông dân tộc Mông, bị cáo không quen biết. Quá trình mở niêm phong xác định khối lượng 1,52 gam Heroine thì các bị cáo đều được chứng kiến và thừa nhận khối lượng thu giữ được xác định là hoàn toàn chính xác. Sự thừa nhận của các bị cáo tại phiên tòa, hoàn toàn phù hợp với lời khai của các bị cáo tại các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, phù hợp nội dung cáo trạng. Do đó, có đủ cơ sở kết luận hành vi của các bị cáo Lò Thị H, Mào Thị T, Cà Thị Đ đã phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy, theo Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Vì vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo truy tố và Kiểm sát viên luận tội là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Xét tính chất vụ án là rất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm vào những quy định của Nhà nước trong việc quản lý, sử dụng các chất ma túy, đồng thời hành vi của bị cáo gây mất trật tự trị an tại địa phương, làm cho tình hình phạm tội về ma túy ngày càng diễn biến phức tạp và cũng là nguyên nhân làm phát sinh nhiều tội phạm khác. Vì vậy cần xử lý nghiêm minh mới có tác dụng răn đe và phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết định khung hình phạt:

Hành vi tàng trữ 1,52 gam Heroine với mục đích vừa sử dụng và vừa bán lẻ kiếm lời của các bị cáo Đ và T có khung hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định:

“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”.

Hành vi bán 1,52 gam Heroine của bị cáo H cho các bị cáo Đ và T có khung hình phạt được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định:

“2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:…

c. Đối với hai người trở lên;…”

[4] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo:

Đối với bị cáo Lò Thị H sinh ra và lớn lên tại xã C, huyện T, tỉnh Điện Biên.

Bị cáo không được đi học mà chỉ ở nhà sản xuất cùng gia đình. Bị cáo có chồng là Lò Văn D, sinh năm 1975 và có 04 người con. Năm 2009 bị cáo H bị Tòa án nhân dân huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên xử phạt 02 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy và 07 năm về tội Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy. Đến ngày 28/12/2018 có hành vi mua ma túy nhằm mục đích bán lẻ, ngày 04/01/2019 bị khởi tố về hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 cho bị cáo. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Bị cáo là người phụ nữ trong gia đình, hơn hết là người mẹ đáng lẽ ra bị cáo phải là tấm gương, chịu thương chịu khó, bằng sức lao động của mình để có thu nhập lương thiện nuôi dạy con cái. Hơn nữa bị cáo đã có một thời gian dài được cải tạo giáo dục nhưng không lấy đó làm bài học để phấn đấu rèn luyện trở thành người tốt mà bị cáo lại tiếp tục có hành vi mua bán trái phép chất ma túy; hành vi phạm tội của bị cáo là một phần gây ra bao nhiêu cái chết trắng, phá hoại cả một thế hệ, khiến cho nhiều gia đình tan vỡ từ nguyên nhân liên quan đến ma túy. Trong thời gian qua Nhà nước đã có nhiều chương trình tuyên truyền về tác hại ma túy, Tòa án nhân dân đã có nhiều lần tổ chức xét xử lưu động nhằm tuyên truyền về các tội phạm ma túy; bản thân bị cáo đã biết và nhận thức được hành vi của mình thực hiện là sai, trái với quy định của Pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện. Qua đây thấy được thái độ coi thường pháp luật của bị cáo; bởi vậy, cần có mức hình phạt nghiêm khắc để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người tốt, có ích cho gia đình và xã hội.

Đối với bị cáo Cà Thị Đ sinh ra và lớn lên tại xã M, huyện T, tỉnh Điện Biên. Bị cáo được gia đình cho đi học đến lớp 5/12 thì nghỉ học ở nhà sản xuất cùng gia đình. Bị cáo có chồng là Quàng Văn C; sinh năm 1989 và có 01 người con. Đến ngày 30/12/2018 có hành vi mua ma túy nhằm mục đích bán lẻ, ngày 04/01/2019 bị khởi tố về hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 cho bị cáo. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Bị cáo là người phụ nữ trong gia đình, hơn hết là người mẹ đáng lẽ ra bị cáo phải là tấm gương, chịu thương chịu khó, bằng sức lao động của mình để có thu nhập lương thiện nuôi dạy con cái. Chỉ vì bản thân nghiện ma túy và suy nghĩ nông cạn, ham lợi nhuận nên bị cáo đã bất chấp quy định của Pháp luật mà thực hiện hành vi phạm tội; bởi vậy, cần có mức hình phạt nghiêm khắc để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người tốt, có ích cho gia đình và xã hội.

Đối với bị cáo Mào Thị T sinh ra và lớn lên tại xã Q, huyện T, tỉnh Điện Biên.

Bị cáo không được gia đình cho đi học mà chỉ ở nhà sản xuất cùng gia đình. Bị cáo có chồng là Cà Văn C; sinh năm 1965 và có 03 người con. Đến ngày 30/12/2018 có hành vi mua ma túy nhằm mục đích bán lẻ, ngày 04/01/2019 bị khởi tố về hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 cho bị cáo. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Bị cáo là người phụ nữtrong gia đình, hơn hết là người mẹ đáng lẽ ra bị cáo phải là tấm gương, chịu thương chịu khó, bằng sức lao động của mình để có thu nhập lương thiện nuôi dạy con cái. Chỉ vì bản thân nghiện ma túy và suy nghĩ nông cạn, ham lợi nhuận nên bị cáo đã bất chấp quy định của Pháp luật mà thực hiện hành vi phạm tội; bởi vậy, cần có mức hình phạt nghiêm khắc để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người tốt, có ích cho gia đình và xã hội.

[5] Theo khoản 5 Điều 251 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định; các bị cáo còn có thể bị phạt bổ sung tiền từ năm triệu đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Tuy nhiên, xét điều kiện hoàn cảnh của các bị cáo không có khả năng thi hành; nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[6] Tại phiên tòa, người đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo đã đề nghị Hội đồng xét xử tuyên mức hình phạt đối với bị cáo Lò Thị H từ 08 năm đến 08 năm 06 tháng tù; bị cáo Cà Thị Đ từ 30 đến 36 tháng tù; bị cáo Mào Thị T từ 30 tháng đến 36 tháng tù, Hội đồng xét xử xét thấy là phù hợp với tính chất mức độ hành vi của bị cáo nên cần chấp nhận.

[7] Tại phiên tòa, người bào chữa cho bị cáo H đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng hình phạt thấp nhất của khung hình phạt đối với bị cáo. Hội đồng xét xử thấy rằng, đối với hành vi của bị cáo, cần có mức hình phạt thật nghiêm khắc, thể hiện sự nghiêm minh của Pháp luật và cũng mang lại tác dụng răn đe, phòng ngừa chung trong tình hình tội phạm ma túy đang diễn biến hết sức phức tạp và là tác nhân gây ra nhiều hành vi phạm tội khác. Do vậy, Hội đồng xét xử không chấp nhận đề nghị của người bào chữa.

[8] Tại phiên tòa, người bào chữa cho bị cáo T đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng điểm s, điểm t khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm2017 đối với bị cáo. Hội đồng xét xử thấy rằng, đối với tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đề nghị áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 sửa đổi bổsung năm 2017 là phù hợp nên cần chấp nhận. Đối với đề nghị áp dụng tình tiếtgiảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại điểm t khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 vì cho rằng căn cứ vào lời khai của bị cáo Thu, nên cơ quan điêu tra mới phát hiện ra bị cáo H có hành vi phạm tội là chưa phù hợp bởi: Đối với lời khai của bị cáo T khai chỉ phù hợp với tính chất thành khẩn khai báo đã được áp dụng cho bị cáo T vì nó liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo. Cơ quan điều tra đã căn cứ vào sự thành khẩn khai báo để điều tra nguồn gốc của số Heroine T và Đ đã mua của ai, lời khai của bị cáo liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo không phải nhằm phát hiện tội phạm khác, người phạm tội khác không liên quan đến mình. Với tính chất, mức độ của bị cáo thực hiện cần có mức hình phạt thật nghiêm khắc, thể hiện sự nghiêm minh của Pháp luật và cũng mang lại tác dụng răn đe, phòng ngừa chung trong tình hình tội phạm ma túy đang diễn biến hết sức phức tạp và là tác nhân gây ra nhiều hành vi phạm tội khác; do vậy, Hội đồng xét xử không chấp nhận đề nghị của người bào chữa.

[9] Trong vụ án này có tính chất đồng phạm, nhưng chỉ là đồng phạm giản đơn.

 [10] Đối với số tiền mà bị cáo vay anh Quàng Văn C, do quá trình khai đềuxác định không liên quan đến hành vi phạm tội; đây là mối quan hệ dân sự, không liên quan đến vụ án nên HĐXX không xem xét.

[11] Đối với người đàn ông dân tộc Mông đã bán ma túy cho bị cáo H, do khi trao đổi mua bán không hỏi địa chỉ, tên tuổi ở đâu nên không có cơ sở để xử lý nên HĐXX không xem xét.

 [12] Về vật chứng: Hội đồng xét xử thấy rằng cần căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017; khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS năm 2015; tịch thu tuyên hủy 01 gói niêm phong màu trắng các mép đều được dán kín bên trong có chứa: 1,43 gam chất bột màu trắng Heroine; 01 mảnh nilon màu trắng, 01 vỏ gói niêm phong dùng để niêm phong vật chứng. Đối với số tiền 9.650.000đ là tiền thu giữ của bị cáo Đ, do không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo Đ.

[13] Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án các bị cáo đủ điều kiện miễn án phí hình sự sơ thẩm.

[14] Trong quá trình tiến hành tố tụng rằng: Các hành vi, quyết định của cơquan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và các bị cáo cũng không có ý kiến khiếu nại đối với các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện là đúng theo quy định của Pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Lò Thị H.

Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với các bị cáo Cà Thị Đ và bị cáo Mào Thị T.

Áp dụng Điều 17; điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017; khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; tuyên xử:

1. Tội danh: Tuyên bố các bị cáo Lò Thị H, Cà Thị Đ, Mào Thị T phạm tội: Mua bán trái phép chất ma túy.

2. Hình phạt:

Xử phạt bị cáo Lò Thị H 08 (Tám) năm tù; được trừ đi 06 ngày tạm giữ; thời gian bị cáo Lò Thị H còn tiếp tục phải thi hành hình phạt tù là 07 (Bảy) năm 11 (Mười một) tháng 24 (Hai mươi bốn) ngày; thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấphành án.

Xử phạt bị cáo Cà Thị Đ 30 (Ba mươi) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 30/12/2018.

Xử phạt bị cáo Mào Thị T 30 (Ba mươi) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 30/12/2018.

3. Vật chứng: Tịch thu tuyên hủy 01 gói niêm phong màu trắng các mép đều được dán kín bên trong có chứa: 1,43 gam chất bột màu trắng Heroine; 01 mảnhnilon màu trắng, 01 vỏ gói niêm phong dùng để niêm phong vật chứng. Trả lại bị cáo Cà Thị Đ số tiền 9.650.000đ (Chín triệu sáu trăm năm mươi nghìn đồng). Đặc điểm vật chứng được ghi theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan điều tra Công an huyện Tuần Giáo với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tuần Giáo ngày 25/3/2019.

4. Án phí: Bị cáo Lò Thị H, bị cáo Cà Thị Đ, bị cáo Mào Thị T được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Các bị cáo Lò Thị H, Cà Thị Đ, Mào Thị T được quyềnkháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (Ngày 09/04/2019).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 19/2019/HS-ST ngày 09/04/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:19/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuần Giáo - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;