Bản án 19/2019/HNGĐ-ST ngày 13/06/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CAO LÃNH, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 19/2019/HNGĐ-ST NGÀY 13/06/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Trong ngày 13 tháng 6 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 27/2019/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 01 năm 2019, về tranh chấp về hôn nhân và gia đình ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 113/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 17 tháng 5 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 109/QĐST-HNGĐ ngày 04 tháng 6 năm 2019, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bùi Thị Đ, sinh năm 1952.

Địa chỉ: Số nhà A, đường B, tổ C, ấp D, xã E, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.

Bị đơn: Võ Minh M, sinh năm 1964.

Địa chỉ: Số nhà A, đường B, tổ C, ấp D, xã E, thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.

Bà Đủa có mặt. Ông Mẩn vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 27/12/2018 và trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, bà Bùi Thị Đ trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà Đủa và ông Mẩn chung sống với nhau vào năm 1991, không có đăng ký kết hôn.

Thời gian chung sống không có hạnh phúc, ông Mẩn thường xuyên đi uống rượu về nhà chửi mắng vợ con, đe doạ và dùng vũ lực làm ảnh hưởng đến tinh thần và sức khoẻ của bà và các con, ông Mẩn còn có hành vi đập phá tài sản trong gia đình, phát sinh nợ riêng gây tổn thất về kinh tế cũng như danh dự của gia đình. Ông Mẩn nhiều năm không có nguồn thu nhập ổn định nuôi sống bản thân và gia đình. Dù đã nhiều lần khuyên ngăn và có sự can thiệp của chính quyền địa phương nhưng ông Mẩn vẫn không thay đổi. Bà Đủa không yêu cầu xử lý hành vi đập phá đồ đạc của ông Mẩn.

Nay bà Đủa yêu cầu ly hôn với ông Võ Minh M.

Con chung: Bà Đủa và ông Mẩn có 03 con chung tên:

1/ Võ Thị Kim Tuyên, sinh ngày 28/8/1993;

2/ Võ Thành Tấn Hải, sinh ngày 29/11/1996;

3/ Võ Thị Thanh Thảo, sinh ngày 12/12/1997.

Hiện nay Kim Tuyên, Tấn Hải, Thanh Thảo đã trưởng thành không yêu cầu Toà án giải quyết.

Tài sản chung: bà Đủa và ông Mẫn tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Nợ chung: Không có.

Tại phiên tòa bà Đủa có đơn yêu cầu Tòa án miễn tiền án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình do bà Đủa là người cao tuổi.

Tại biên bản làm việc ngày 06/3/2019, biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ ngày 06/3/2019, ngày 17/4/2019 ông Võ Minh M trình bày:

Quan hệ hôn nhân: Ông Mẩn và bà Đủa tổ chức đám cưới ngày 09/10/1991, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường 3, thị xã Cao Lãnh (nay là thành phố Cao Lãnh) vào năm 1991 nhưng hiện tại do giấy chứng nhận kết hôn bị thất lạc nên không có để cung cấp cho Tòa án. Trong quá trình chung sống, ông Mẩn thừa nhận có thường xuyên uống rượu, chửi mắng vợ con và đập phá tài sản trong gia đình. Tại biên bản làm việc ngày 06/3/2019, ông Mẩn đồng ý ly hôn theo yêu cầu của bà Đủa.

Về con chung: ông Mẩn và bà Đủa có 03 con chung tên:

1/ Võ Thị Kim Tuyên, sinh ngày 28/8/1993;

2/ Võ Thành Tấn Hải, sinh ngày 29/11/1996;

3/ Võ Thị Thanh Thảo, sinh ngày 12/12/1997.

Hiện nay Kim Tuyên, Tấn Hải, Thanh Thảo đã trưởng thành không yêu cầu Toà án giải quyết.

Tài sản chung: Ông Mẩn và bà Đủa tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Nợ chung: Không có.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Lãnh phát biểu:

Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng: Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án đã chấp hành đúng quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng.

- Về nội dung: về quan hệ hôn nhân: Bà Đủa yêu cầu ly hôn với ông Mẩn nhưng bà Đủa và ông Mẩn chung sống không có đăng ký kết hôn nên căn cứ vào khoản 1 Điều 14, khoản 2 Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà Bùi Thị Đ và ông Võ Minh M.

Về con chung: Đã trưởng thành, không xem xét.

Về tài sản chung: Đương sự tự thỏa thuận, không xem xét. Về nợ chung: không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Căn cứ theo đơn khởi kiện của bà Đủa và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án thể hiện quan hệ pháp luật tranh chấp giữa các đương sự là tranh chấp về hôn nhân và gia đình ly hôn, bị đơn có địa chỉ tại xã Mỹ Tân, thành phố Cao Lãnh, nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Tòa án nhân dân thành phố Cao Lãnh đã tống đạt hợp lệ quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa và giấy triệu tập cho ông Mẩn nhưng ông Mẩn không có mặt tại phiên tòa, bà Đủa đồng ý việc xét xử vắng mặt ông Mẩn tại phiên tòa theo quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông Mẩn theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

Quan hệ hôn nhân: Bà Đủa và ông Mẩn chung sống với nhau như vợ chồng vào năm 1991 là có thật, được các đương sự thừa nhận. Trong quá trình chung sống, bà Đủa và ông Mẩn phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân mâu thuẩn là ông Mẩn thường xuyên uống rượu, chửi mắng vợ con và đập phá tài sản trong gia đình. Bà Đủa yêu cầu ly hôn với ông Mẩn. Tại biên bản làm việc ngày 06/3/2019, ông Mẩn đồng ý ly hôn theo yêu cầu của bà Đủa.

Xét yêu cầu của bà Đủa yêu cầu ly hôn với ông Mẩn, Hội đồng xét xử xét thấy, bà Đủa cho rằng bà Đủa và ông Mẩn chung sống với nhau không có đăng ký kết hôn; ông Mẫn cho rằng ông và bà Đủa chung sống có đăng ký kết hôn tại UBND phường 3 thị xã Cao Lãnh (nay là thành phố Cao Lãnh) vào năm 1991 nhưng ông Mẩn không cung cấp được tài liệu chứng cứ để chứng minh cho việc đăng ký kết hôn giữa ông và bà Đủa. Tại phiên tòa, ông Mẫn không có mặt để trình bày ý kiến của ông Mẩn nhưng tại văn bản số 49/UBND-TP ngày 01/4/2019 của Ủy ban nhân dân Phường 3, thành phố Cao Lãnh xác nhận: qua kiểm tra hồ sơ đăng ký kết hôn tại UBND phường 3 từ năm 1993 đến 2006 thì ông Võ Minh M và bà Bùi Thị Đ không có đăng ký kết hôn và văn bản số 62/UBND -TP ngày 26/4/2019 của Ủy ban nhân dân Phường 3, thành phố Cao Lãnh xác nhận: qua kiểm tra hồ sơ đăng ký kết hôn tại UBND phường 3 từ năm 1991, 1992 ông Võ Minh M và bà Bùi Thị Đ không có đăng ký kết hôn tại UBND phường 3. Đồng thời tại văn bản số 74/UBND-TP ngày 25/3/2019 của Ủy ban nhân dân xã Mỹ Tân xác nhận “Qua kiểm tra tàng thư hồ sơ lưu hộ tịch (kết hôn) năm 1990 không tìm thấy thông kết hôn của bà Bùi Thị Đ và ông Võ Minh M”.

Tại phiên tòa, bà Đủa cũng khẳng định bà Đủa và ông Mẩn chung sống với nhau nhưng không có đăng ký kết hôn. Như vậy, bà Đủa và ông Mẩn chung sống với nhau như vợ chồng nhưng không tuân thủ về đ ăng ký kết hôn mà Luật Hôn nhân và gia đình đã quy định, nên hôn nhân của bà Đủa và ông Mẩn không phải là hôn nhân hợp pháp, không được pháp luật công nhận là vợ chồng, không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình, nên Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 14, khoản 2 Điều 53 Luật hôn nhân và gia đình, tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà Đủa và ông Mẩn.

Con chung: Bà Đủa và ông Mẫn thống nhất có 03 con chung:

1/ Võ Thị Kim Tuyên, sinh ngày 28/8/1993;

2/ Võ Thành Tấn Hải, sinh ngày 29/11/1996;

3/ Võ Thị Thanh Thảo, sinh ngày 12/12/1997.

Hiện nay Kim Tuyên, Tấn Hải, Thanh Thảo đã trưởng thành không yêu cầu Toà án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Tài sản chung: bà Đủa và ông Mẩn tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Nợ chung: bà Đủa và ông Mẩn thống nhất trình bày không có nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí dân sự sơ thẩm: Xét yêu cầu miễn nộp tiền án phí của bà Đủa, Hội đồng xét xử xét thấy, theo giấy chứng minh nhân dân bà Đủa cung cấp thể hiện, bà Đủa sinh năm 1952, thuộc trường hợp người cao tuổi theo quy định tại Điều 2 Luật người cao tuổi, đồng thời bà Đủa thuộc trường hợp được miễn nộp tiền tạm ứng án phí và án phí theo quy định tại điểm đ, khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Do đó, Hội đồng xét xử miễn tiền án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình cho bà Đủa và bà Đủa được nhận lại tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Ông Võ Minh M không phải chịu tiền án phí sơ thẩm về hôn nhân và gia đình.

Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Lãnh là có căn cứ, nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Khoản 1 Điều 28; Điểm a Khoản 1 Điều 35; Điểm a Khoản 1 Điều 39, Khoản 4 Điều 147, Điểm b Khoản 2 Điều 227 và Khoản 3 Điều 228, Điều 266, 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Khoản 1 Điều 14, khoản 2 Điều 53 của Luật Hôn nhân và gia đình; điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 14, Điều 15 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

- Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà Bùi Thị Đ và ông Võ Minh M.

Con chung: Bà Đủa và ông Mẩn có 03 con chung: Võ Thị Kim Tuyên, sinh ngày 28/8/1993; Võ Thành Tấn Hải, sinh ngày 29/11/1996; Võ Thị Thanh Thảo, sinh ngày 12/12/1997. Hiện nay các con chung đã trưởng thành, không yêu cầu Toà án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Tài sản chung: bà Đủa và ông Mẩn tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Nợ chung: bà Đủa và ông Mẩn trình bày không có nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Về án phí dân sự sơ thẩm:

Bà Bùi Thị Đ được miễn tiền án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình.

Bà Bùi Thị Đ được nhận lại 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp theo biên lai thu số 0005150 ngày 15 tháng 01 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cao Lãnh.

Ông Võ Minh M không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân gia đình.

Bà Bùi Thị Đ có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Ông Võ Minh M có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 - Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 - Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 19/2019/HNGĐ-ST ngày 13/06/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:19/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cao Lãnh - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;