Bản án 19/2018/HSST ngày 26/04/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG HƯNG, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 19/2018/HSST NGÀY 26/04/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 26 tháng 4 năm 2018 tại trụ sở Tòa án Nhân dân huyện Đông Hưng; Tòa án huyện Đông Hưng tỉnh Thái Bình mở phiên tòa công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 19/2017/HSST ngày 05 tháng 4 năm 2018 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2018/QĐXX-ST ngày 12/4/2018 đối với:

Bị cáo: Nguyễn Văn Ph, sinh ngày 18/9/2000

HKTT: Thôn H T, xã Đ C, huyện Đ H, tỉnh TB.

Quốc tịch: Việt Nam, Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không

Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do.

Bố đẻ: Nguyễn Văn Ngh sinh năm 1973; Mẹ đẻ Phạm Thị B sinh năm 1973

Chưa có vợ con.

Tiền án, tiền sự: Không.

(Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.)

Người đại diện hợp pháp đồng thời là người bào chữa cho bị cáo Phong: Bà Phạm Thị B sinh năm 1973 - Là mẹ đẻ của bị cáo

Địa chỉ: Thôn H T, xã Đ C, huyện Đ H, tỉnh T B. (Có mặt tại phiên tòa)

Người bị hại: Chị Bùi Thị Nh sinh năm 1980

Địa chỉ: Thôn B, xã ĐS, huyện ĐH, tỉnh TB (Xin vắng mặt)

- Người làm chứng: Anh Trần Danh Đ sinh năm 1976

Địa chỉ: Thôn CD 1, xã ĐL, huyện ĐH, tỉnh TB (vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 6 giờ 50 phút ngày 07/2/2018, Nguyễn Văn Ph điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 17B2-097.33 từ nhà ra đường 217 mục đích lên công ty may B M ở xã ĐL làm việc. Khi đến trước cửa hàng tạp hóa Đ Nh của gia đình chị Bùi Thị Nh sinh năm 1980 ở thôn B, xã Đ S, huyện Đ H, tỉnh TB, bị cáo Ph dừng xe ở bên ngoài trước cửa hàng mục đích vào mua lương khô ăn sáng. Khi đi vào trong cửa hàng Ph thấy không có người bán hàng. Lúc này chị Nh đang pha sữa cho con ở gian nhà bên trong. Phía bên phải cửa hàng (nhìn từ ngoài cửa vào) tại quầy thanh toán tiền có để một chiếc hòm bằng tôn sáng màu đã cũ, kích thước (0,54 x 0,35 x 0,24)m không khóa. Ph nghĩ bên trong hòm có tiền, quan sát xung quanh không có người nên nảy sinh ý định trộm cắp tiền trong hòm tôn. Ph cúi thấp người, mục đích để nếu trong nhà có người sẽ không bị phát hiện và đi đến gần chiếc hòm tôn dùng tay trái mở nắp hòm rồi luồn tay phải vào bên trong, tay trái giữ nắp hòm tôn thì thấy có một chiếc túi xách giả da màu nâu nhỏ có một ngăn bên ngoài đã hỏng khóa và ba ngăn bên trong. Ph nghĩ chiếc túi này đựng tiền nên đã lấy chiếc túi ra khỏi hòm tôn, tay trái đậy nhẹ chiếc hòm tôn lại để tránh gây tiếng kêu. Khi lấy được túi ra ngoài Ph nhìn thấy trong túi xách có tiền nên cầm chiếc túi đi ra xe mô tô, cài túi vào giá đèo hàng phía trước của xe rồi điều khiển xe đi ra quốc lộ 10 để đi đến công ty làm việc. Khi đi qua UBND xã Đ L, huyện Đ H khoảng 100m thì bị cáo Ph rẽ phải đi đến một bãi rác gần chùa G thuộc xã Đ L thì dừng xe mở chiếc túi xách vừa trộm cắp được ra thấy một ngăn bên trong túi xách đựng một buộc tiền loại mệnh giá 500.000 đồng được buộc bằng dây nịt cao su, ngăn bên cạnh đựng nhiều buộc tiền loại mệnh giá 200.000 đồng, 100.000 đồng và 50.000 đồng được buộc bằng dây nịt cao su.

Ph lấy toàn bộ số tiền bỏ vào cốp xe mô tô, Ph không kiểm đếm nên không biết đã trộm cắp được bao nhiêu tiền. Ph nhìn bên trong chiếc túi xách còn một chùm chìa khóa, có 5 chìa và một quyển sổ ghi chép nhỏ. Ph để nguyên trong túi và để chiếc túi xách đó lên miệng một bao đựng rác ở bãi rác rồi điều khiển xe về công ty may B M làm việc. Xe mô tô Ph gửi trong bãi xe của công ty, số tiền trộm cắp vẫn để nguyên trong cốp xe. Khoảng 10 giờ cùng ngày Ph nghỉ làm lấy xe mô tô đi đến cửa hàng mua bán xe cũ của anh Trần Danh Đ, sinh năm 1976 ở thôn C D , xã Đ L, Đ H, tỉnh TB để bán xe. Anh Đ trả chiếc xe 8.000.000 đồng, Ph đồng ý bán. Trong lúc anh Đ làm thủ tục mua bán xe Ph điều khiển xe mô tô đến cửa hàng của anh Bùi Văn Q sinh năm 1999 ở Đ V, Đ L, Đ H mua một chiếc túi xách giả da màu nâu có quai đeo bằng vải trị giá 200.000 đồng rồi Ph lấy toàn bộ số tiền trộm cắp được để ở trong cốp xe bỏ vào trong túi đeo lên người rồi điều khiển xe về cửa hàng anh Đ giao xe cho anh Đ rồi nhận tiền bán xe 8.000.000 đồng, và tiền anh Đ trả nợ trước 3.000.000 đồng bỏ vào trong ví, cơ quan điều tra không quản lý số tiền này. Sau đó Ph nhờ anh Đ chở về công ty may B M làm việc. Trong lúc làm việc Ph để chiếc túi đựng tiền trộm cắp bên cạnh chỗ ngồi. Đến khoảng 15 giờ cùng ngày Ph bị Cơ quan điều tra Công an huyện Đông Hưng triệu tập về trụ sở Công an huyện làm việc. Cơ quan điều tra đã tiến hành kiểm đếm số tiền trong túi xách trước sự chứng kiến của Ph gồm 19 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng, 77 tờ tiền mệnh giá 200.000 đồng, 22 tờ loại mệnh giá 100.000 đồng, 48 tờ tiền loại mệnh giá 50.000 đồng. Tổng 29.500.000 đồng. Cơ quan điều tra đã lập biên bản quản lý chiếc túi xách cùng toàn bộ số tiền trên. Chị Nh sau khi pha sữa cho con ra quầy bán hàng thì phát hiện bị mất tiền trong hòm tôn, chị đã làm đơn trình báo Công an huyện Đông Hưng.

Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Đông Hưng đã định giá chiếc túi xách của chị Nh trị giá 52.000 đồng.

Ngày 10/02/2018 cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đông Hưng đã trả lại số tiền trên cho chị Nh Chị Nh không yêu cầu Ph phải bồi thường giá trị chiếc túi xách, chùm chìa khóa và cuốn sổ nhỏ do giá trị tài sản không lớn.

Căn cứ vào hành vi phạm tội của bị cáo, Cáo trạng số 22/CT - VKSĐH ngày 03/4/2018 của Viện kiểm sát Nhân dân huyện Đông Hưng đã truy tố Nguyễn Văn Ph về tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.; Trong phần tranh luận tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hưng giữ quyền công tố tại phiên tòa phân tích nguyên nhân, điều kiện phạm tội, đánh giá chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội, tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, hậu quả, nhân thân của bị cáo, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trên cơ sở đó giữ nguyên quan điểm truy tố theo Cáo trạng số 22/CT-VKSĐH, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) xử bị cáo Ph về tội: “Trộm cắp tài sản” Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1, khoản 2 Điều 65, Điều 91, Điều 101 Bộ luật hình sự.

Đề nghị HĐXX tuyên phạt bị cáo Nguyễn Văn Ph từ 06 - 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách đối với bị cáo từ 12 -18 tháng; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo đồng thời xử lý vật chứng.

Về trách nhiệm dân sự: Gia đình chị Nh đã nhận lại toàn bộ số tiền bị mất không yêu cầu bị cáo bồi thường giá trị chiếc túi xách, chùm chìa khóa và cuốn sổ nhỏ nên Đại diện viện kiểm sát đề nghị HĐXX không giải quyết.

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn Ph đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình; Cụ thể khoảng 7giờ sáng ngày 07/2/2018, Ph đã có hành vi vào cửa hàng tạp hóa nhà chị Bùi Thị Nh ở thôn B, xã Đ S lén lút trộm cắp một chiếc ví giả da trị giá 52.000 đồng bên trong có 29.500.000 đồng tổng giá trị tài sản trộm cắp là 29.552.000 đồng đúng như bản cáo trạng đã nêu.

Bị cáo Ph và bà Phạm Thị B là người đại diện hợp pháp, đồng thời là người bào chữa cho bị cáo đều xác định cáo trạng truy tố bị cáo về hành vi trộm cắp tài sản là đúng pháp luật vì vậy không trình bày lời bào chữa, cũng không trình bày ý kiến tranh luận về tội danh, mức hình phạt do Kiểm sát viên đề nghị. Tuy nhiên bà B đề nghị hội đồng xét xử xem xét vì Ph chưa đủ 18 tuổi, nên không hiểu biết pháp luật đề nghị HĐXX cân nhắc cho Ph được hưởng án treo.

Người bị hại vắng mặt tại phiên Tòa có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Ph, không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại tài sản là chiếc túi xách, chùm chìa khóa và cuốn sổ do giá trị tài sản không lớn.

Kết thúc phần tranh luận tại phiên tòa bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo nhận thức hành vi của mình là vi phạm pháp luật rất ân hận về việc làm của mình đề nghị HĐXX xem xét các quy định của pháp luật giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

[1] Về hành vi quyết định tố tụng: Các tài liệu chứng cứ do Điều tra viên, Kiểm sát viên thu thập trong quá trình điều tra vụ án thì thấy đã tuân thủ các quy định của pháp luật. Đó là các tài liệu hợp pháp chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo. Căn cứ vào các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đông Hưng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hưng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[ 2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo cụ thể vào 7giờ sáng ngày 07/2/2018, Nguyễn Văn Ph đã có hành vi vào cửa hàng tạp hóa nhà chị Bùi Thị Nh ở thôn B, Đ S lén lút trộm cắp một chiếc ví giả da trị giá 52.000 đồng bên trong có 29.500.000 đồng tổng giá trị tài sản trộm cắp là 29.552.000 đồng đúng như bản cáo trạng số 22/CT-VKSĐH ngày 03/4/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hưng đã truy tố.

Lời khai nhận tội của bị cáo còn phù hợp với: Lời khai của người làm chứng, người bị hại, cùng toàn bộ các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy HĐXX có đủ cơ sở kết luận Nguyễn Văn Ph đã phạm vào tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự .

[ 3] Về tính chất mức độ hậu quả của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của công dân, gây mất trật tự an ninh, an toàn xã hội, vì vậy việc đưa bị cáo ra xét xử áp dụng một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng răn đe giáo dục và phòng ngừa tội phạm và thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật.

Tuy nhiên khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo chưa đủ 18 tuổi do vậy cần áp dụng nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội, quy định tại các Điều 91, Điều 101 BLHS khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

Bị cáo có nhân thân tốt, phạm tội ít nghiêm trọng, do vậy không cần phải bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù mà cần áp dụng Điều 65 BLHS cho bị cáo được hưởng án treo để bị cáo thấy được tính khoan hồng của pháp luật.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải lần đầu phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, i khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.

[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là người chưa thành niên phạm tội nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Chị Nh đã nhận lại số tiền bị mất và không có yêu cầu bồi thường thiệt hại trị giá tài sản bị mất nên không đặt ra giải quyết.

[8]Về xử lý vật chứng: Chiếc túi xách giả da có quai đeo bằng vải, mặt trước túi có in chữ Jeep là công cụ bị cáo dùng phạm tội cần tiếp tục quản lý hóa giá xung công quỹ nhà nước.

- Chiếc xe mô tô BKS 17B2-097.33 bị cáo dùng làm phương tiện phạm tội qua xác minh là của bà Phạm Thị B mẹ đẻ bị cáo mua lại, tuy nhiên qua xác minh không phải là xe vật chứng của vụ án. Bà B cho Ph mượn xe để đi làm, chiếc xe này Ph đã bán cho anh Đ. Anh Đ bán cho người khác, việc Ph bán xe bà B không biết, nhưng bà không có yêu cầu gì đối với chiếc xe này nên không giải quyết.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo được kháng cáo bản án trong thời hạn luật định.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh : Bị cáo Nguyễn Văn Ph phạm vào tội: “Trộm cắp tài sản”

2. Về điều luật áp dụng và hình phạt: Áp dụng Khoản 1 Điều 173, điểm s, i khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51, Điều 50, Điều 91, Điều 101, và Điều 65 Bộ luật hình sự .

Xử phạt Nguyễn Văn Ph 09(chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18(mười tám) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm ngày 26/4/2018. Giao bị cáo Ph cho UBND xã ĐC giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

Bị cáo phải thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật thi hành án hình sự.

3. Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra giải quyết 4. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điểm a, khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu hóa giá sung quỹ nhà nước 01 túi xách giả da có đặc điểm như trong biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan điều tra Công an huyện Đông Hưng và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Hưng ngày 08/2/2018.

5.Về án phí và quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 136, 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Nguyễn Văn Ph phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người đại diện hợp pháp đồng thời là người bào chữa cho bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại, vắng mặt có quyền làm đơn kháng án trong hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

236
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 19/2018/HSST ngày 26/04/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:19/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Hưng - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;