TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 19/2018/HNGĐ NGÀY 06/04/2018 VỀ KHÔNG CÔNG NHẬN QUAN HỆ VỢ CHỒNG
Ngày 06 tháng 4 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Lê Chân thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 25/2018/TLST- HNGĐ ngày 16 tháng 01 năm 2018 về không công nhận quan hệ vợ chồng theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 17/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 3 năm 2018 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Bích T, sinh năm 1971; đăng ký thường trú và trú tại: Số 6/127/261 Trần Nguyên Hãn, phường Nghĩa Xá, Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng; có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
Bị đơn: Ông Hoàng Minh S, sinh năm 1966; đăng ký thường trú và trú tại: Số 6/127/261 Trần Nguyên Hãn, phường Nghĩa Xá, Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn xin ly hôn, các lời khai của bà Nguyễn Thị Bích T có trong hồ sơ thể hiện:
Bà Nguyễn Thị Bích T và ông Hoàng Minh S xây dựng gia đình với nhau trên cơ sở tự nguyện vào năm 1994, khi đó cả hai đang chung sống và làm việc tại nước Nga; ông bà chỉ tổ chức lễ cưới chứ không làm thủ tục đăng ký kết hôn.
Quá trình chung sống, thời gian đầu hai người hòa thuận hạnh phúc, đến năm 2007- 2009 thì cùng về Việt Nam chung sống và vẫn không đi đăng ký kết hôn, tuy nhiên lại phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân do hai bên bất đồng quan điểm sống, trong sinh hoạt hàng ngày thường có những xung đột không thể dung hòa được. Mâu thuẫn đỉnh điểm là tháng 10/2017, hai bên thường xuyên xảy ra xô xát, cãi vã, ông S lăng mạ, xúc phạm, đuổi vợ ra khỏi nhà. Từ tháng 10/2017 đến nay hai bên đã sống ly thân, không còn quan tâm đến nhau nữa. Nay bà T đề nghị Tòa án giải quyết không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà và ông Hoàng Minh S.
Về con chung: Bà T và ông S có hai con chung tên là Hoàng Minh Vũ, sinh năm 1995 và Hoàng Nguyễn Bách Tùng, sinh năm 1999. Nay các con đều đã thành niên, bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung: Bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại phiên tòa, ông Hoàng Minh S vắng mặt. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thông báo về việc thụ lý vụ án, tiến hành triệu tập ông S và tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án cho ông, nhưng ông không đến Tòa án làm việc. Điều đó cho thấy ông S đã tự từ bỏ quyền cũng như không thực hiện nghĩa vụ của mình trước pháp luật, không còn quan tâm đến cuộc sống gia đình với bà T.
Theo tài liệu chứng cứ mà bà T cung cấp là "Bản cam kết" được lập giữa bà T, ông S có sự chứng kiến của cụ Hoàng Vũ Luân là bố đẻ ông Hoàng Minh S vào ngày 01/01/2009 thể hiện mâu thuẫn giữa hai bên đã kéo dài từ lâu, hai bên thường xảy ra xô xát, cãi vã. Mặt khác hai người đều không có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận xét:
- Về tố tụng:
[1]. Theo đơn khởi kiện được xác nhận tại nơi cư trú thể hiện: Ông Hoàng Minh S, sinh năm 1966, có đăng ký thường trú và trú tại: Số 6/127/261 Trần Nguyên Hãn, phường Nghĩa Xá, Quận Lê Chân, thành phố Hải Phòn. Căn cứ Điều 28, 35, 39 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án không công nhận quan hệ vợ chồng giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Bích T và bị đơn là ông Hoàng Minh S thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng.
[2]. Trong quá trình giải quyết vụ án, bà T có yêu cầu không hòa giải về mặt con chung, tài sản chung, bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhưng không có mặt tại Tòa án nên không thể tiến hành hòa giải được theo quy định tại khoản 1 Điều 207 Bộ luật tố tụng Dân sự.
[3]. Tại phiên tòa, nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Thu T có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa, bị đơn là ông Hoàng Minh S vắng mặt tại phiên tòa không có lý do, mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai. Bởi vậy, căn cứ vào khonar 1, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các bên đương sự.
- Về quan hệ hôn nhân:
[4]. Bà Nguyễn Thị Bích T và ông Hoàng Minh S chung sống với nhau như vợ chồng trên cơ sở tự nguyện, mà không có đăng ký kết hôn nên không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Quá trình chung sống: Bà T và ông S nảy sinh mâu thuẫn do hai bên bất đồng quan điểm sống, cách sống, hai bên thường xuyên xảy ra xô xát cãi vã. Hiện nay ông bà đã sống ly thân, không ai quan tâm đến ai về mọi mặt. Bởi vậy, bà T có đơn yêu cầu tòa án giải quyết không công nhận quan hệ vợ chồng giữa bà với ông S là phù hợp với thực tế, cần được chấp nhận theo quy định tại Điều 14; khoản 2 Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình.
- Về con chung:
[5]. Bà T và ông S có hai con chung tên là Hoàng Minh V, sinh năm 1995 và Hoàng Nguyễn Bách T, sinh năm 1999. Cả hai con chung đều đã thành niên nên Hội đồng xét xử không xét.
- Về tài sản chung:
[6]. Bà Nguyễn Thị Bích T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét.
[7]. Về án phí: Bà T phải nộp 300.000đ tiền án phí dân sự sơ thẩm theo luật định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 28; Điều 147; Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ Khoản 1 Điều 14; khoản 2 Điều 53 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.
Tuyên xử:
Không công nhận bà Nguyễn Thị Bích T và ông Hoàng Minh S là vợ chồng.
Về án phí: Bà Nguyễn Thị Bích T phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm. Bà T đã nộp đủ số tiền án phí là 300.000đ theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0004757 ngày 16 tháng 10 năm 2018 của Chi cục thi hành án dân sự quận Lê Chân.
Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.
Bản án 19/2018/HNGĐ ngày 06/04/2018 về không công nhận quan hệ vợ chồng
Số hiệu: | 19/2018/HNGĐ |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 06/04/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về